Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai
(HNNN) – Quốc kỳ nền đỏ sao vàng rực rỡ, tươi thắm, xứng đáng là một biểu trưng đặc biệt, thiêng liêng, cao quý và đầy tự hào của nước Việt Nam.
Thiêng liêng lễ chào cờ trên Quảng trường Ba Đình.
Từ đầu những năm 1930, trong các cuộc đấu tranh cách mạng tại Việt Nam đã xuất hiện lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh được lồng trên hình búa liềm. Cuối năm 1940, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp và phát xít Nhật diễn ra mạnh mẽ tại các tỉnh miền Nam. Từ ngày 21 đến 23-9-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng, bàn kế hoạch khởi nghĩa. Một vấn đề quan trọng đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng. Cuộc họp quyết định phát động khởi nghĩa vào ngày 23-11-1940 và thực hiện di huấn của đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, là lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa với ước muốn sau khi đánh đổ thực dân đế quốc thì Quốc kỳ Việt Nam sẽ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh ở giữa.
Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5-3-1901 tại Hà Nam) là một chiến sĩ cách mạng nhiệt tình và tài hoa, được giao nhiệm vụ sáng tác mẫu cờ. Sau nhiều ngày suy nghĩ, miệt mài phác thảo, đồng chí Tiến đã hoàn thành sứ mệnh đặc biệt này: Tạo ra lá cờ hình chữ nhật có ngôi sao vàng năm cánh nằm giữa nền đỏ tươi. Chiều rộng cờ bằng 2/3 chiều dài. 5 đỉnh của ngôi sao nằm trên đường tròn có tâm tại chính tâm lá cờ và bán kính bằng 1/5 chiều dài lá cờ. 5 đỉnh còn lại của hình thập giác thể hiện ngôi sao đều nằm trên đường tròn đồng tâm mà bán kính bằng 1/10 chiều dài lá cờ (như vậy, mẫu ngôi sao này hơi khác so với ngôi sao trên Quốc kỳ Việt Nam hiện nay). Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến cũng sáng tác một bài thơ đầy tâm huyết về lá cờ: “Hỡi những ai máu đỏ da vàng/ Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc/ Nền cờ thắm máu đào vì đất nước/ Sao vàng tươi da của giống nòi/ Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi/ Hỡi sĩ – công – nông – thương – binh/ Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh”.
Ban lãnh đạo khởi nghĩa khi đó là các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai… đã chuẩn y mẫu cờ trên.
Khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp với biểu tượng cờ đỏ sao vàng, làm lao đao chính quyền đô hộ. Chúng đàn áp khốc liệt. Hàng ngàn người bị bắt, tra tấn và giết hại. Nguyễn Hữu Tiến đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù vào ngày 28-8-1941. Trước lúc ngã xuống, ông đã kịp gửi lại một bài thơ động viên đồng bào, chiến sĩ, với những câu tràn trề tinh thần lạc quan cách mạng: “… Anh em đi trọn con đường nhé/ Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai…”
Trung tuần tháng 5-1941, tại rừng Khuổi Nậm thuộc Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Tháng 9-1941, văn kiện Chương trình Việt Minh được soạn thảo, trong đó nêu rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”. Đây được coi là văn bản đầu tiên chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng.
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) đã thống nhất quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay, đỏ rực cả Quảng trường. Ngày 5-9-1945, Bác ký Sắc lệnh số 5-SL ấn định Quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, ngày 2-3-1946, Bác phát biểu khẳng định: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi Quốc kỳ và Quốc ca…”. Toàn thể đại biểu Quốc hội đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ nước ta. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam thông qua năm 1946 cũng quy định rõ: “Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.
Ngày 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam liền một dải. Từ ngày 24-6 đến 3-7-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại Thủ đô Hà Nội, thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, đổi Quốc hiệu là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và công nhận Quốc kỳ Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều chính thức hóa, cụ thể hóa mô hình Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 hiện hành tiếp tục khẳng định và chính thức hóa mô hình Quốc kỳ Việt Nam bằng quy định tại Khoản 1, Điều 13: “Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”.
Về ý nghĩa hình thức Quốc kỳ, nền đỏ tươi tượng trưng cho màu máu đỏ – màu nhiệt huyết cách mạng, màu sinh lực và chiến đấu, chiến thắng; sắc vàng tươi của ngôi sao tượng trưng cho màu da vàng, cho sự rạng rỡ của linh hồn dân tộc Việt Nam; năm cánh sao là sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp nhân dân (sĩ, công, nông, thương, binh) trong sự nghiệp dựng, giữ và phát triển đất nước.