Có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân thì có được đăng ký khai sinh mang họ của cha không?


Hai vợ chồng tôi kết hôn đã hơn 10 năm, nay tôi phát hiện được chồng sống chung và có con riêng với người khác. Cho tôi hỏi chồng có được đăng ký khai sinh cho con lấy họ của cha không? Chồng tôi đã ngoại tình với người khác trong thời kỳ hôn nhân, hành vi đó bị xử lý ra sao?

Có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân thì có được đăng ký khai sinh mang họ của cha không?

Đối với trường hợp hai vợ chồng anh chị thì vẫn đang trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp được pháp luật Việt Nam công nhận, nên trường hợp người chồng có quan hệ mới với người khác và có con thì sẽ không được pháp luật Việt Nam công nhận là vợ chồng nên không có giấy đăng ký kết hôn để khai sinh cho con mang họ cha hoặc quốc tịch Việt Nam (nếu người kia là người nước ngoài).

Theo đó trường hợp này trước tiên cần phải thực hiện thủ tục nhận cha cho con theo quy định tại Điều 25 Luật Hộ tịch năm 2014 như sau:

“Điều 25. Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con

1. Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.

2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.

Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 05 ngày làm việc.”

Về chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con được hướng dẫn bởi Điều 14 Thông tư 04/2020/TT-BTP:

“Điều 14. Chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con

Chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều 25 và khoản 1 Điều 44 của Luật hộ tịch gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau đây:

1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.

2. Trường hợp không có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều này thì các bên nhận cha, mẹ, con lập văn bản cam đoan về mối quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại Điều 5 Thông tư này, có ít nhất hai người làm chứng về mối quan hệ cha, mẹ, con.”

Như vậy, người chồng cần chứng minh được quan hệ cha con (thông thường sẽ là xét nghiệm ADN) để làm thủ tục nhận cha con.

Sau khi làm thủ tục nhận con xong thì mới có căn cứ để đăng ký khai sinh mang họ cha và quốc tịch Việt Nam theo quy định được.

Tuy nhiên mình cần lưu ý hành vi có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp vi phạm chế độ một vợ một chồng sẽ bị xử phạt hành chính và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân

Có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân (Hình từ Internet)

Sống chung và có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân bị xử lý ra sao?

Căn cứ vào quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nghiêm cấm các hành vi sau:

“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

2. Cấm các hành vi sau đây:

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

…”

Trong đó, chung sống như vợ chồng được hiểu là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. (Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014).

Qua đó, hành vi sống chung và có con riêng với người khác trong thời kỳ hôn nhân là hành vi ngoại tình với người đã có gia đình sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP như sau:

“Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.”

Như vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì hành vi ngoại tình với người đã có gia đình bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Ngoài ra tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của vấn đề mà hành vi này còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vi phạm chế độ một vợ một chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Cụ thể, người nào có hành vi ngoại tình với người đã có gia đình có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng” theo Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”

Do đó, căn cứ theo điều khoản đã nêu trên, thì hành vi ngoại tình với người đã có gia đình là một hành vi vi phạm pháp luật.

Còn tùy vào mức độ và tính chất của hành vi thì có mức phạt riêng cho từng đối tượng khác nhau.