Chuyên đề 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI – Đoàn Thanh niên Tổng công ty ĐSVN
Dân tộc Việt
Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải
đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội và từ thực tiễn đấu tranh
chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Trí tuệ
đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền thống, bản lĩnh và trí
tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm hiểu thêm tư tưởng
của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm cao mới của thời
đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
– Dân tộc là
sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình thức cộng đồngthị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng
dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính
sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc
trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do
của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.
– Nội dung
cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự do là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thấm đượm
tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí Minh cái quý
nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc
lập…”.
Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc
lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của
cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các
dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do.
– Năm 1919,
vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các đồng minh thắng
trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho những người
Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây một bản yêu sách 8
điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã không
được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn được giải phóng, các dân
tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
– Trong
Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“a. Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm
cho nước Nam được hoàn thành độc lập”
– Đầu năm
1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, viết thư Kính
cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy” .
Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong
một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết
giành cho được độc lập!”….
– Cách mạng
Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
– Kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc,
Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “… thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Khi đế
quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở rộng chiến tranh
miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có giá trị cho
mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không
chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì
thế, Người không chỉ được tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của
Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
– Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được tiến hành dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to
lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ
đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được
đúng đắn vấn đề dân tộc.
– Ra đi tìm
đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường
giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng vô sản. Người viết
rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn
thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước
nào đó,… thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”.
– Hồ Chí
Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản châu Âu
trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách
mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào
sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập
cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế
giới.
– Mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những
luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Năm 1924, từ
sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh
khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc
là động lực lớn của đất nước”;“Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.
Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản:
“Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa
dân tộc của họ thắng lợi,… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế”.
+ Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi
gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa,
ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi
tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm
1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn
thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập
cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh
đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc,
“dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là
một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của
dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng.
Ngay từ năm
1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập
của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Người đã nhiệt
liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự
giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng
góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc
lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người.
Xuất phát từ
chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn liền
mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa
chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì cách mạng vô
sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi giai cấp và
tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người nói: giành độc lập
rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu,
nước mạnh”,… “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm
giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt
động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc lập, Người thể hiện ý chí độc
lập bằng câu nói “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho
được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người nói: “Nếu nước độc lập mà
dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc,… đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Như vậy, tư
tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người luôn luôn
gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ
thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả
đi theo con đường của cách mạng vô sản.
– Đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễnViệt Nam qua
các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý
là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là
cách mạng vô sản.
– Từ đầu
những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con
đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh
bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải
kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
– Hồ Chí
Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước
hết phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công”
– “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”.
– Hồ Chí
Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải
được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn
kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh
viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của một
hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều
nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng
định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh… công
nông là gốc cách mệnh”.
– Trong cách
mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi
các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc,
đấu tranh giành độc lập, tự do.
– Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ
vận động các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt,
Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung…
– Trong khi
chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ
Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách
mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc.
– Đầu thế kỷ
XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của
các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản
(tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc
địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”;“nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các
thuộc địa” ,
nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”.
– Vận dụng
công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công
cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nỗ lực của bản thân anh em” .
– Do nhận
thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do
đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm
1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
– Khẳng định
vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách
mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Những luận
điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và
đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế
giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện
bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng
vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu
năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề
cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi
nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không
phải một cuộc nổi loạn… Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự
phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền
thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ
sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
– Tháng 5 –
1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách
mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là
bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một
cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
– Để chuẩn
bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo
xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị
của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời
cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được
chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng
thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối
chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa.
Thắng lợi
của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã
chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.