Chu nghia Mac-Lenin
Ănggen
Chống Duyhring
V. Triết học về tự nhiên. Không gian và thời gian.
Bây giờ, chúng ta nói sang triết học về
tự nhiên. Ở đây, ông Đuy-rinh lại có đầy
đủ lý do để không hài lòng về những
tiền bối của ông.
Triết học về tự nhiên “đã suy
đồi đến mức trở thành một thứ
thơ văn giả hiệu rỗng tuếch và dựa trên
sự ngu dốt”, và “đã trở thành số
phận của thứ triết lý đánh đĩ của
một Schelling hoặc những kẻ cùng loại, cố
đóng vai trò của các hoạ sĩ phụng thờ cái
tuyệt đối và mê hoặc công chúng”. Sự
mệt mỏi đã giải thoát chúng ta khỏi những
“quái vật” ấy, nhưng cho đến nay, nó
chỉ mới nhường chỗ cho “sự giao
động” mà thôi “còn về công chúng đông
đảo, thì như mọi người đều
biết, ở đây sự ra đi của một tay
bịp bợm lớn thường chỉ là một
dịp cho kẻ kế vị cỡ nhỏ hơn,
nhưng thạo nghề hơn, bày lại món hàng của
kẻ bịp bợm trước dưới một nhãn
hiệu khác”. Chính những nhà khoa học tự nhiên
cũng không “muốn dạo chơi trong cái vương
quốc của những tư tưởng bao trùm cả
thế giới” và do đó, trong lĩnh vực lý
luận, họ chỉ đưa ra “những kết
luận vội vã rời rạc”.
Tóm lại ở đây rất cần có sự giúp
đỡ, và may mắn thay, đã có sẵn ông Đuy-rinh.
Để đánh giá đúng những sự phát
hiện tiếp theo về sự phát triển của
thế giới trong thời gian và sự giới hạn
của thế giới trong không gian, chúng ta buộc phải
nói trở lại về một vài đoạn trong
“đồ thức luận về vũ trụ”.
Tồn tại – vẫn lại nhất trí với
Hegel (“Bách khoa toàn thư”, $93) – được
người ta gán cho cái tính vô tận – cái mà Hegel gọi là
tính vô tận xấu – và sau đó người ta nghiên
cứu tính vô tận ấy.
“Hình thức rõ rệt nhất của tính vô
tận có thể quan niệm được một cách
không có mâu thuẫn,là sự tích luỹ cô hạn những
số trong chuỗi số… Cũng như ta có thể thêm
một đơn vị nào vào mỗi số mà không bao
giờ làm cạn được khả năng tiếp
tục đếm, thì tiếp sau mỗi trạng thái
của tồn tại cũng đều có một trạng
thái khác, và tính vô tận chính là ở sự nảy sinh
một cách vô hạn những trạng thái đó. Vì vậy
tính vô tận chính là ở sự nảy sinh một cách vô
hạn những trạng thái đó. Vì vậy tính vô tận
đó được suy nghĩ một cách chính xác, cũng
chỉ có một hình thức cơ bản với một
hướng duy nhất mà thôi. Bởi vì, mặc dầu
đối với tư duy của chúng ta, hình dung sự
tích luỹ các trạng thái luôn luôn biến đổi theo
hướng này hay hướng ngược lại là
một việc không quan trọng, nhưng dẫu sao tính vô
tận đi giật lùi chẳng qua cũng chỉ là
một hình ảnh do một biểu tượng quá vội
vã tạo ra. Thật vậy, vì trong thực tế sự
tích luỹ ấy phải theo hướng ngược
lại, cho nên trong mỗi trạng thái cá biệt của nó,
nó sẽ để lại đằng sau nó một
chuỗi số dài vô tận. Nhưng như thế là chúng
ta lại mắc vào mối mâu thuẫn không thể chấp
nhận được về một chuỗi vô tận có
thể đếm được và vì thế giả
định rằng tính vô tận có một hướng
thứ hai nữa thì thật là vô nghĩa.”
Kết luận thứ nhất rút ra từ quan
niệm đó về tính vô tận là: mối liên hệ nhân
quả trong thế giới vào một lúc nào đó đã
phải có thời điểm khởi đầu của
nó:
“một chuỗi vô tận những nguyên nhân
đã xấp nối đuôi nhau là một điều không
thể có được, chỉ là vì nó giả định
một sự hằng hà vô số mà lại đếm
được”.
Như thế là nguyên nhân cuối cùng đã
được chứng minh.
Hậu quả thứ hai là:
“quy luật về con số xác định:
chỉ có thể quan niệm được một sự
tích luỹ những thành phần giống nhau của
một chủng loại hiện thực nào đó gồm
những vật thể độc lập, như là
việc hình thành một con số nhất định”.
Không những con số hiện có của các thiên thể
trong mỗi lúc phải là một con số xác định
tự nó, mà cả tổng số những phần vật
chất độc lập nhỏ nhất tồn tại
trên thế giới cũng phải là như vậy. Tính
tất yếu này là lý do thực sự giải thích tại
sao lại không thể quan niệm một hợp chất
nào không có nguyên tử. Mọi sự phân chia hiện
thực bao giờ cũng có một giới hạn dứt
khoát và phải có tính giới hạn như thế, nếu
không thì sẽ gặp mâu thuẫn là một sự hằng
hà vô số mà lại đếm được. Cũng vì
lẽ ấy mà không những số vòng quả đất
xoay quanh mặt trời từ trước đến nay
phải là một số xác định mặc dầu không
thể nói rõ là bao nhiêu, nhưng tất cả các quá trình chu
kỳ trong tự nhiên cũng đều phải có một
khởi điểm, và tất cả mọi sự phân
biệt, tất cả những tính nhiều vẻ nối
tiếp nhau trong tự nhiên cũng đều phải
bắt nguồn từ một trạng thái bất biến.
Trạng thái này có thể đã tồn tại từ
rất lâu mà không có mâu thuẫn; song ngay cả quan niệm
trên dây cũng sẽ bị loại trừ nếu bản
thân thời gian gồm có những bộ phận hiện
thực chứ không phải bị lý trí của chúng ta phân chia
ra một cách tuỳ tiện, chỉ bằng cách giả
định những khả năng trên ý niệm với
nội dung hiện thực và bên trong không giống nhau của
thời gian thì lại khác; việc thực tế nhét
đầy thời gian bằng những sự kiện có
thể phân biệt được và những hình thức
tồn tại của lĩnh vực đó, – chính do tính
chất có thể phân biệt được của nó, –
đều thuộc phạm vi có thể đếm
được. Nếu chúng ta tưởng tượng ra
một trạng thái không có những biến đổi và
trong sự đồng nhất của nó với bản
thân, nó tuyệt đối không thể hiện những
sự phân biệt nào trong trình tự kế tục cả,
thì một khái niệm riêng hơn về thời gian cũng
sẽ chuyển thành một quan niệm chung hơn về
tồn tại. Sự tích luỹ của một thời
gian trống rỗng phải có nghĩa là cái gì, điều
đó thậm chí không thể hình dung được.
ông Đuy-rinh đã nói như vậy và ông ta
lấy làm đắc ý không ít về ý nghĩa của
những phát hiện ấy. Thoạt tiên ông ta mong mỏi
rằng người ta “ít nhất cũng sẽ không coi
đó là một chân lý không đáng kể”, nhưng sau
đó, ông ta nói:
“Người ta hãy nhớ lại những
phương pháp cực kỳ đơn giản nhờ
đó mà chúng tôi đã đem lại cho các khái niệm
về tính vô tận và cho sự phê phán những khái niệm
ấy một tầm quan trọng từ trước
tới nay chưa từng biết đến… hãy nhớ
lại những yếu tố của quan niệm phổ
biến về không gian và về thời gian, đuợc
cấu tạo một cách đơn giản đến
như thế, nhờ việc đi sâu và làm cho rõ thêm
hiện nay.”
Chúng tôi đã đem lại! Việc đi sâu vào
làm cho rõ thêm! Chúng tôi là ai và cái hiện nay ấy là vào lúc nào?
Ai đi sau vào làm cho rõ thêm?
“Luận điểm. Thế giới có
khởi điểm trong thời gian và cũng có giới
hạn trong không gian. – Chứng minh: Thật vậy, nếu
cho rằng thế giới không có điểm khởi
đầu trong thời gian thì trước mỗi một
thời điểm nhất định đều có
cả một vĩnh cửu đã trôi qua, và do đó có một
chuỗi vô tận những trạng thái kế tiếp nhau
của những sự vật trong thế giới đã
trôi qua. Nhưng tính vô tận của một chuỗi chính là
ở chỗ chuỗi đó không bao giờ có thể
kết thúc bằng một sự tổng hợp liên
tiếp được. Vì vậy, cái chuỗi vô tận
đã trôi qua của thế giới là điều không
thể có được; do đó, khởi điểm
của thế giới là điều kiện tất
yếu của sự tồn tại của nó, – đó là
điểm đầu tiên cần chứng minh. – Còn về
điểm thứ hai, nếu lại thừa nhận
điều ngược lại thì thế giới sẽ là
một tổng thể vô hạn nhất định
của bất cứ biểu tượng trực quan nào,
thì chúng ta chỉ có thể quan niệm được
đại lượng đó bằng cách tổng hợp
các bộ phận, còn toàn bộ của một lượng
như thế – chỉ bằng cách tổng hợp
đầy đủ hoặc chỉ bằng cách lặp
lại việc kết hợp đơn vị với
bản thân nó. Vì vậy, muốn quan niệm thế
giới choán đầy tất cả các không gian như là
một tổng thể, thì phải coi sự tổng
hợp liên tiếp những bộ phận của thế
giới vô tận là một sự tổng hợp hoàn
thiện, nghĩa là phải coi cái thời gian vô tận,
cần thiết để đếm tất cả các sự
vật cùng tồn tại, như là đã trôi qua rồi,
đây là một điều không thể làm được.
Vậy không thể coi một hợp thể vô tận
những vật hiện thực là một tổng thể
nhất định có cùng một lúc. Do đó, xét về
bề rộng của nó trong không gian thì thế giới
không phải là vô tận mà là nằm trong những giới
hạn của nó: đó là điểm thứ hai”
(cần phải chứng minh).
Những câu trên đây được sao y nguyên
văn từ một quyển sách nổi tiếng xuất
bản lần đầu tiên năm 1871, nhan đề là
“Phê phán lý tính thuần tuý” của Immanuel Kant, trong
đó bất cứ người nào cũng có thể
đọc thấy những lời trên đây trong phần
I, đoạn II, quyển II, chương II, mục 2:
Sự tự mâu thuẫn[1*] thứ nhất của
lý tính thuần tuý. Như vậy là ông Đuy-rinh chỉ có
niềm vinh quang là đã gán cái tên: “quy luật về tính xác
định của mỗi số” cho một ý kiến
mà Kant đã nói ra, và đã phát hiện ra rằng đã có
một thời kỳ chưa có thời gian nhưng vẫn
có thế giới. Còn về tất cả những cái khác,
tức là về tất cả những cái gì còn có đôi
chút ý nghĩa trong những lập luận của ông
Đuy-rinh, thì đó là “chúng tôi” – tức là Immanuel
Kant, và “hiện tại” thì chỉ cách đây mới
có 95 năm. Quả thật là “cực kỳ đơn
giản”! “Cái tầm quan trọng từ trước
đến nay chưa từng biết đến thật là
tuyệt vời làm sao”!
Nhưng Kant cũng không hề khẳng
định rằng những luận điểm trên đây
đã được xác lập dứt khoát bằng sự
chứng minh của ông. Trái lại thế. Ngay cạnh trang
đó, Kant khẳng định và chứng minh điều
ngược lại: thế giới không có điểm
khởi đầu trong thời gian và không có điểm
kết thúc trong không gian, và chính vì cả hai điều
đó nên có thể chứng minh được nên Kant
mới đưa ra cái tự mâu thuẫn [Antinomie], tức
là một mâu thuẫn không thể giải quyết
được. Nhưng con người dũng cảm
chuyên chế tạo ra những “kết luận và quan
niệm độc đáo đên tận gốc” của chúng
ta lại không thế: trong cái Antinomie của Kant, cái gì ông ta
dùng được thì ông ta sao chép lại một cách
chăm chỉ, còn những cái khác thì ông ta vứt bỏ
đi.
Vấn đề tự nó được giải
quyết rất dễ dàng. Cái vĩnh cửu trong thời
gian, cái vô tận trong không gian, – như điều đó
đã rõ ràng ngay từ đầu và theo ý nghĩa đơn
giản của những từ ấy, – là ở chỗ,
ở đây không có điểm tận cùng về một
phía nào cả, cả ở đằng trước lẫn
ở đằng sau, cả ở trên lẫn ở
dưới, cả ở bên phải lẫn bên trái. Cái vô
tận này khác hẳn với cái vô tận của một
chuỗi vô tận, bởi vì chuỗi vô tận bao giờ
cũng bắt đầu từ đơn vị, từ
một số đầu tiên. Việc không thể áp
dụng quan niệm về chuỗi số ấy vào
đối tượng của chúng ta sẽ bộc lộ
rõ ngay khi ta đem nó áp dụng vào không gian. Chuỗi vô
tận, áp dụng vào không gian là một đường kéo
dài đến vô tận của không gian, dẫu chỉ là
ở một mức xa xôi thôi, hay không? Hoàn toàn không. Trái
lại cần phải từ cùng một điểm ấy
kẻ sáu đường theo ba huớng ngược nhau
thì mới có thể quan niệm được các chiều
của không gian, và do đó chúng ta sẽ có sáu chiều. Kant
hiểu rất rõ điều đó nên ông ta chỉ vận
dụng chuỗi số của ông ta vào tính không gian của
thế giới một cách gián tiếp, bằng cách đi
vòng mà thôi. Trái lại, ông Đuy-rinh ép chúng ta phải
thừa nhận sáu chiều trong không gian và ngay lập
tức sau đó ông ta lại không ngớt căm phẫn lên
án chủ nghĩa thần bí toán học của Gau là một người đã tỏ ý không thoả
mãn với ba chiều thông thường của không gian.
Áp dụng vào thời gian thì đường vô
tận về hai phía, hay hai chuỗi vô tận những
đơn vị hướng theo hai phía, có một ý
nghĩa hình ảnh nào đó. Nhưng nếu chúng ta hình dung
thời gian như một chuỗi tính từ đơn
vị trở đi, hay như một đường
bắt đầu từ một điểm nhất
định, thì như vậy chúng ta nói trước
rằng thời gian có điểm khởi đầu: chúng
ta đã giả thiết chính điều mà chúng ta muốn
chứng minh. Chúng ta gán cho tính vô tận của thời gian
một tính chất phiến diện, nửa vời;
nhưng một tính vô tận phiến diện bị phân
đôi, cũng là một mâu thuẫn tự nó, là cái
đối lập trực tiếp với cái “vô tận
được quan niệm là không có mâu thuẫn”. Chúng
ta chỉ có thể vượt qua được mâu
thuẫn đó nếu chúng ta thừa nhận rằng
đơn vị mà chúng ta dùng để bắt đầu
đếm chuỗi số, điểm mà từ đó chúng
ta đo tiếp đường, đều là một
đơn vị nào đó trong chuỗi số, một
điểm nào đó trên đường, và dù ta có
đặt đơn vị hay điểm đó ở
đâu chăng nữa thì điều đó cũng không quan
trọng đối với đường hay đối
với chuỗi số cả.
Nhưng còn mâu thuẫn của “chuỗi vô
tận đếm đựoc” thì thế nào? Nếu ông
Đuy-rinh chỉ cho chúng ta thấy cái thuật đếm
chuỗi số đó như thế nào thì có lẽ chúng ta
sẽ có thể nghiên cứu nó sâu hơn. Bao giờ ông ta
làm nổi cái công việc đến từ âm vô cực cho đến số không, thì lúc
đó xin mời ông ta trở lại. Rất rõ ràng là dù ông
ta bắt đầu đếm từ số nào cũng
vậy, ông ta vẫn để lại đằng sau ông ta
một chuỗi số dài vô tận và cùng với nó là
cả một bài toán ông ta phải giải đáp. ông ta hãy
cứ đảo ngược cái chuỗi vô tận của
ông ta 1+2+3+4… và hãy cứ đếm ngược lại
từ vô cực đến đơn vị xem; hiển
nhiên đó là mưu toan của một người hoàn toàn
không hiểu biết gì về việc mình đang làm cả.
Hơn thế nữa, khi ông Đuy-rinh khẳng định
rằng chuỗi vô tận của thời gian đã qua là
đã đếm được rồi thì như vậy
ông ta đã khẳng định rằng thời gian có
điểm khởi đầu; vì nếu không thì ông không tài
nào bắt đầu “đếm” được.
Thế là một lần nữa ông lại lén lút đưa
ra dưới dạng một tiền đề cái mà ông ta
phải chứng minh. Như vậy, cái quan niệm về
chuỗi vô tận đã đếm được, nói cách
khác là quy luật bao quát toàn thế giới của
Đuy-rinh về tính xác định của mỗi con
số, là một contradictio in adjecto[2*], nó chứa
đựng một mâu thuẫn trong bản thân nó, thậm
chí còn là một mâu thuẫn phi lý nữa.
Một điều rõ ràng là: cái vô tận có
điểm tận cùng nhưng không có điểm khởi
đầu, thì cũng vô tận không hơn hay không kém cái vô
tận có điểm khởi đầu mà không có
điểm tận cùng. Nếu có được một
chút hiểu biết về biện chứng thì có lẽ ông
Đuy-rinh đã biết được rằng
điểm khởi đầu và điểm tận cùng nhất
định phải đi đôi với nhau cũng như
cực bắc với cực nam; rằng nếu xoá bỏ
điểm tận cùng đi thì chính điểm khởi
đầu lại trở thành điểm tận cùng –
điểm tận cùng duy nhất của chuỗi số,
và ngược lại cũng thế. Toàn bộ ảo
tưởng sẽ không thể thực hiện
được nếu không có thói quen toán học vận
dụng những chuỗi vô tận. Vì trong toán
học, cần phải xuất phát từ cái xác
định, cái có hạn, để đi dến cái không
xác định, cái vô hạn, cho nên tất cả các
chuỗi toán học dương hoặc âm đều
phải bắt đầu bằng đơn vị,
nếu không thì không dùng để tính toán được.
Nhưng nhu cầu trên ý niệm của nhà toán học thì còn
xa mới là một quy luật bắt buộc đối
với thế giới hiện thực.
Vả lại ông Đuy-rinh cũng sẽ không bao
giờ quan niệm được cái vô tận hiện
thực không có mâu thuẫn.Cái vô tận là một mâu
thuẫn, và nó chứa đầy những mâu thuẫn. Cái
vô tận chỉ gồm những đại lượng có
hạn cộng thành cũng đã là một mâu thuẫn
rồi, và đúng là như thế. Tính có hạn của
thế giới vật chất cũng dẫn đến
nhiều mâu thuẫn chẳng kém gì tính vô tận của nó,
và như ta đã thấy, bất kỳ mưu toan nào
định gạt bỏ những mâu thuẫn đó
đều dẫn đến những mâu thuẫn mới
và nghiêm trọng hơn. Chính vì cái vô tận là một mâu
thuẫn nên nó là một quá trình vô tận, diễn ra vô
tận trong thời gian và trong không gian. Xoá bỏ mâu
thuẫn sẽ có nghĩa là chấm dứt cái vô tận
Hegel đã hiểu điểm này một cách hoàn toàn đúng
đắn nên ông ta coi khinh một cách chính đáng những
ngài triết lý suông về mối mâu thuẫn ấy.
Chúng ta hãy bàn tiếp. Vậy, thời gian đã có
điểm khởi đầu. Nhưng trước
điểm khởi đầu đó có cái gi? Thế
giới nằm trong trạng thái bất biến,
đồng nhất với bản thân. Và vì trong trạng
thái ấy, không xảy ra những sự biến
đổi nối tiếp nhau, cho nên khái niệm
đặc thù hơn về thời gian cũng tự nó
biến thành ý niệm phổ biến hơn về tồn
tại. Một là, ở đây chúng ta hoàn toàn không dính dáng gì
đến vấn đề: những khái niệm nào
đang chuyển biến trong đầu óc của ông
Đuy-rinh. Vấn đề ở đây không phải là
khái niệm về thời gian, mà là thời gian hiện
thực mà ông Đuy-rinh quyết không thể dứt bỏ
được dễ dàng như vậy. Hai là, dầu cho
khái niệm về thời gian có thể chuyển hoá thành ý
niệm chung hơn về tồn tại đến mức
nào chăng nữa, thì điều đó vẫn không làm cho
chúng ta tiến thêm được bước nào cả. Vì
các hình thức cơ bản của mọi tồn tại
là không gian và thời gian, và một tồn tại nằm
ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như
một tồn tại ở ngoài không gian. Cái “tồn
tại đã qua ở ngoài thời gian” của Hegel và cái
“tồn tại từ thuở rất xa xưa”[19]
của phái Schelling mới, còn là những biểu
tượng hợp lý so với cái tồn tại nằm
ngoài thời gian ấy. Vì vậy ông Đuy-rinh đi vào
vấn đề một cách rất là thận trọng: nói
cho đúng ra, đấy cũng là thời gian, nhưng là
thời gian mà về thực chất không thể gọi là
thời gian được; bởi vì bản thân thời
gian ấy không bao gồm những bộ phận hiện
thực và chỉ bị lý tính của chúng ta phân chia ra
một cách tuỳ tiện thành các phần mà thôi; chỉ có
việc thực sự nhét đầy thời gian bằng
những hiện tượng có thể phân biệt
được, thì mới là cái có thể đếm
được; còn sự tích luỹ một khoảng
thời gian dài trống rỗng là cái gì thì điều
đó thậm chí cũng không thể hình dung
được. Ở đây, sự tích luỹ đó là cái
gì, điều đó hoàn toàn không quan trọng; vấn
đề là trong trạng thái giả thiết ở đây,
liệu thế giới có kéo dài không, liệu nó có trải
qua một khoảng thời gian hay không? Việc đo
một khoảng thời thời gian không có nội dung
như thế thì chẳng mang lại kết quả gì
cả, cũng giống như trong trường hợp
đo một cách vu vơ không có mục đích trong không gian
trống rỗng, – điều đó chúng ta đã biết
từ lâu rồi, và chính vì cái tính chất tẻ nhạt
của loại công việc đó mà Hegel đã gọi cái vô
tận ấy là cái vô tận xấu. Đối với ông
Đuy-rinh, thời gian chỉ tồn tại thông qua sự
biến đổi, chứ không phải là sự biến
đổi tồn tại trong thời gian và nhờ
thời gian. Chính vì thời gian khác, độc lập
với sự biến đổi mà người ta có
thể dùng sự biến đổi, chứ không phải
là sự biến đổi tồn tại trong thời gian
và nhờ thời gian. Chính vì thời gian khác, độc
lập, với sự biến đổi mà người ta
có thể dùng sự biến đổi để do
thời gian, bởi vì muốn đo thì bao giờ cũng phải
dùng một cái gì khác với vật cần đo. Còn
thời gian trong đó không xảy ra những biến
đổi rõ rệt nào thì quyết không thể hoàn toàn không
phải là thời gian; trái lại đó là thời gian
thuần tuý, không bị những tạp chất lạ
từ bên ngoài xâm nhập, do đó là thời gian thực
sự, thời gian với tư cách là thời gian. Thật
vậy, nếu chúng ta muốn hiểu được khái
niệm thời gian dưới dạng hoàn toàn thuần tuý
của nó tách khỏi tất cả mọi tạp chất
lạ từ bên ngoài, thì chúng ta buộc phải gạt sang
một bên những biến cố khác nhau, xẩy ra cùng
một lúc hay kế tiếp nhau trong thời gian, coi đó
là những cái không thuộc phạm vi thời gian, và
bằng cách đó hình dung một thời gian trong đó không
có gì xẩy ra cả. Như vậy, chúng ta đã không
để cho khái niệm thời gian chìm ngập trong ý
niệm chung về tồn tại, mà lần đầu tiên
chúng ta đạt tới khái niệm thuần tuý về
thời gian.
Nhưng so với sự lẫn lộn mà ông
Đuy-rinh, cùng với cái quan niệm của ông ta về
trạng thái ban đầu đồng nhất với
bản thân của thế giới, đã rơi vào, thì
tất cả những mâu thuẫn, những điều
không thể có trên dây chỉ là trò trẻ con thôi. Nếu
thế giới đã có lần ở vào trạng thái
tuyệt đối không xẩy ra một biến đổi
nào cả, thì làm thế nào mà nó lại có thể chuyển
từ trạng thái đó sang những sự biến
đổi được? Cái tuyệt đối không có
sự biến đổi nào, thêm nữa, nó lại ở
trong trạng thái ấy từ thời hết sức xa
xưa, thì dù sao cũng không thể tự nó thoát ra khỏi
trạng thái ấy, chuyển sang trạng thái vận
động và biến đổi được. Như
vậy là phải có một cái đẩy đầu tiên
từ bên ngoài, từ ngoài thế giới vào, làm cho nó
vận động. Nhưng ai cũng biết rằng
“cái đẩy đầu tiên” chỉ là một cách
nói khác để chỉ thượng đế mà thôi. ông
Đuy-rinh thuyết phục chúng ta là gạt bỏ sạch
sành sanh thượng đế và thế giới bên kia ra
khỏi đồ thức vũ trụ của ông rồi,
nhưng ở đây chính ông ta lại đem cả hai
trở lại – dưới một dạng tinh vi hơn và
sâu sắc hơn – trong triết học về tự nhiên.
Tiếp nữa, ông Đuy-rinh nói:
“Chỗ nào mà đại lượng là
thuộc về một yếu tố bất biến
của tồn tại thì ở đó đại
lượng vẫn cứ bất biến trong tính quy
định của nó. Điều đó là đúng…
đối với vật chất và đối với
lực cơ giới.”
Tiện đây xin nói rằng câu thứ nhất là
một kiểu mẫu quý giá về cái tài ba hoa trong việc
nêu những định đề trùng lắp của ông
Đuy-rinh: chỗ nào mà đại lượng không
biến đổi thì nó vẫn y nguyên như cũ. Do
đó, lực cơ giới, một khi đã tồn
tại trên thế giới thì vĩnh viễn vẫn như
thế. Chúng ta chưa nói rằng, trong chừng mực
điều đó là đúng thì triết học Descartes
cũng đã biết và đã nói đến điều
đó cách đây gần ba trăm năm rồi; rằng
trong khoa học tự nhiên, thuyết bảo tồn năng
lượng đã thịnh hành khắp nơi từ hai
mươi năm nay rồi; rằng khi hạn chế
điều đó trong phạm vi lực cơ giới thì
ông Đuy-rinh chẳng cải tiến nó thêm được chút
nào cả. Nhưng như thế thì vào cái thời trạng
thái không biến đổi, lực cơ giới nằm
ở đâu? ông Đuy-rinh vẫn một mực không
chịu trả lời câu hỏi ấy.
Thưa ông Đuy-rinh, hồi đó cái lực
cơ giới vĩnh viễn ngang bằng với bản
thân nằm ở đâu, và nó đã đẩy cái gì vận
động. Trả lời:
“Trạng thái ban đầu của vũ
trụ, hay nói cho rõ hơn, của tồn tại của
vật chất không có biến đổi, không có một
sự tích luỹ nào về những sự biến
đổi trong thời gian, là một vẫn đề mà
chỉ có một trí tuệ nào cho rằng tự ý làm què
quặt năng lực sinh sản của mình là khôn ngoan
rất mực, mới có thể gạt bỏ
được.”
Như vậy là: hoặc là các anh hãy nhắm
mắt thừa nhận cái trạng thái ban đầu không
có biến đổi của tôi, hoặc là tôi, Eugen
Đuy-rinh, con người có khả năng sinh sản,
sẽ tuyên bố rằng tất cả các người
đều là những hoạn quan về mặt tinh
thần! Dĩ nhiên điều này có thể đe doạ
được một số người nào đấy!
Còn chúng ta là những người đã thấy
được một vài ví dụ về năng lực
sinh sản của ông Đuy-rinh rồi, chúng ta có thể
tự cho phép mình không trả lời câu chửi tao nhã
ấy và hỏi lại một lần nữa rằng:
nhưng thưa ông Đuy-rinh, xin lỗi ông, thế cái
lực cơ giới ấy nó ra thế nào?
ông Đuy-rinh sẽ lúng túng ngay lập tức.
Thật thế, ông ta đã ấp úng: “tự
nó tính đồng nhất tuyệt đối của
trạng thái giới hạn ban đầu đó không đem
lại một nguyên lý nào về sự quá độ cả.
Nhưng chúng ta hãy nhớ lại rằng về thực
chất, mỗi một mắt xích mới nhỏ nhất
trong sợi dây chuyền của tồn tại mà chúng ta
rất quen thuộc, cũng đều gặp khó khăn
như vậy cả. Cho nên kẻ nào muốn nêu ra những
khó khăn trong trường hợp chủ yếu nói ở
đây, thì cũng không được bỏ qua những khó
khăn đó trong những trường hợp ít rõ rệt
hơn. Hơn nữa, chúng ta vẫn có khả năng
gộp những trạng thái trung gian tiến dần
từng nấc vào, và như thế là cái cầu của
của sự liên tục vẫn được mở thông
để đi ngược lên đến tận chỗ
không còn có những biến đổi nữa. Thật ra,
xét về mặt thuần tuý trên ý niệm thì tính liên
tục này không giúp chúng ta khắc phục được
những khó khăn chủ yếu, nhưng đối
với chúng ta, nó vẫn là hình thức cơ bản của
mọi quy luật và của mọi sự quá độ khác
mà ai nấy đều biết, thành thử chúng ta cũng
có quyền dùng nó làm khâu trung gian giữa sự thăng
bằng đầu tiên ấy và sụ mất thăng
bằng. Nhưng nếu ta quan niệm sự thăng bằng
có thể nói là (!) bất động, theo đúng như
những khái niệm đã được thừa nhận
trong cơ học hiện nay mà không có sự phán đổi
đặc biệt nào (!), thì sẽ hoàn toàn không thể
giải thích được là làm thế nào mà vật
chất dã có thể tiến tới trạng thái biến đổi
được”. Nhưng ngoài cơ học khối
lượng ra thì theo ông Đuy-rinh, còn có sự chuyển
hoá của vận động của các khối
lượng thành vận động của các hạt
nhỏ nhất, nhưng sự chuyển hoá đó diễn
ra bằng cách nào thì “cho đến nay chúng ta vẫn
chưa có được một nguyên lý chung nào, và như
vậy chúng ta đừng lấy làm lạ khi thấy
rằng nhưng quá trình đó còn hơi chìm trong bóng
tối”
Đó là tất cả những điều mà ông
Đuy-rinh có thể nói được. Và trên thực
tế, nếu chúng ta muốn tự thoả mãn với
những thủ đoạn đoạn dánh trống
lảng và những câu nói thực sự thảm hại,
trống rỗng ấy thì chúng ta ắt phải thấy
rằng không những “việc tự ý làm què quặt năng
lực sinh sản của mình”, mà cả niềm tin mù quáng mê
muội nữa, đều là sự khôn ngoan rất
mực. Như chính ông Đuy-rinh đã thú nhận, tính
đồng nhất tuyệt đối tự nó không
thể nào đi tới sự biến đổi
được. Không có một thủ đoạn nào mà
nhờ nó sự thăng bằng tuyệt đối tự
nó không thể nào đi tới sự biến đổi
được. Không có một thủ đoạn nào mà
sự thăng bằng tuyệt đối có thể
chuyển sang vận động được. Thế thì
còn lại cái gì? Còn lại ba cách nói dối trá thối nát.
Thứ nhất: cũng sẽ khó mà chỉ ra
được sự quá độ từ mỗi mắt
xích nhỏ nhất sang mắt xích tiếp liền đó
trong sợi dây chuyền của tồn tại mà chúng ta
đã biết rất rõ. – Hình như ông Đuy-rinh coi
độc giả của mình là những trẻ em còn bú.
Việc chỉ ra những bước quá độ và liên
hệ cá biệt của những mắt xích nhỏ
nhất trong sợi dây chuyền của tồn tại chính
là nội dung của khoa học tự nhiên, và nếu
việc ấy còn vấp váp ở một chỗ nào đó
thì cũng không ai, kể cả bản thân ông Đuy-rinh,
lại nghĩ đến chuyện giải thích sự
vận động đã diễn ra từ hư không, mà bao
giờ cũng chỉ từ sự di chuyển, sự
biến đổi hoặc sự tiếp tục của
một vận động nào đó trước đây.
Nhưng ở đây, như ông ta đã thừa nhận,
vấn đề lại là làm thế nào để có
sự vận động nảy sinh từ sự bất
động, tức là từ hư không.
Thứ hai: chúng ta có “cái cầu của tính liên
tục”. Xét về mặt thuần tuý trên ý niệm, thì
cái cầu này quả thật không giúp ta vượt
được khó khăn, nhưng chúng ta vẫn có
quyền dùng nó làm môi giới giữa sự bất động
và vận động. Khốn nỗi, tính liên tục
của sự bất động lại là ở chỗ
không vận động; như vậy làm thế nào dùng nó
để đẻ ra sự vận động
được, đó vẫn là một điều bí
ẩn hơn bao giờ hết. và dầu cho ông Đuy-rinh
có phân chia bước quá độ từ chỗ không có
sự vận động đến sự vận
động phổ biến thành bao nhiêu phần vô cùng
nhỏ đi nữa và gán cho bước quá độ ấy
một thời gian dài bao nhiêu chăng nữa thì cũng
vẫn chẳng làm cho chúng ta tiến được
một phần nghìn mi-li-mét nào cả. Nếu không có một
hành vi sáng tạo thì ta không thể nào đi được
từ chỗ hư không đến một cái gì đó, dù
cho cái gì đó chỉ nhỏ như một vi phân toán
học. Như vậy là cái cầu của tính liên tục
thậm chí cũng không phải là một cái cầu của
những con lừa nữa; chỉ có ông
Đuy-rinh mới có thể qua được cái cầu
đó.
Thứ ba: chừng nào cơ học hiện
đại còn có giá trị – và theo ông Đuy-rinh đó là
một trong những đòn bẩy hết sức quan
trọng để hình thành tư duy – thì không thể
giải thích được làm thế nào mà người ta
có thể chuyển từ sự không vận động
sang vận động được. Nhưng thuyết
cơ học về nhiệt chỉ cho chúng ta thấy
rằng trong những trường hợp nhất
định, sự vận động của khối
lượng biến thành sự vận động phân
tử (mặc dù cả ở đây nữa sự vận
động cũng nảy sinh ra từ một sự
vận động khác, chứ không bao giờ từ sự
không vận động), và điều đó, – ông
Đuy-rinh nói một cách rụt rè – có lẽ có thể là
một cái cầu giữa cái tĩnh triệt để (cái
đang ở trạng thái thăng bằng) với cái
động (đang cần vận động). Nhưng các
quá trình này còn “hơi chìm trong bóng tối”. Và ông
Đuy-rinh đã để chúng ta ngồi ỳ trong bóng
tối đó.
Nhờ tất cả việc đi sâu vào làm cho rõ
thêm, chúng ta đã đi đến chỗ là: ngày càng chìm sâu
vào một sự vô lý ngày vàng tinh vi hơn để
cuối cùng đi đến cái bến mà chúng ta bắt
buộc phải đến nơi “bóng tối”.
Nhưng điều đó không làm cho ông Đuy-rinh bối
rối một chút nào cả. Ngay trang sau, ông còn cả gan
khẳng định rằng ông ta đã
“có thể đem lại một nội dung
hiện thực cho khái niệm về sự bất
biến đồng nhất với bản thân, xuất phát
trực tiếp từ những hành động của
bản thân vật chất và của các lực cơ
khí”.
Thế mà chính con người ấy lại
gọi người khác là “bọn bịp bơm”!
May thay, giữa tình trạng lẫn lộn và
lầm lạc đến tuyệt vọng ấy thì
“trong bóng tối”, chúng ta vẫn còn được
một niềm an ủi, và đó quả thật là niềm
an ủi đang nâng cao tâm hồn con người lên.
“toán học của những người dân
ở các thiên thể khác không thể dựa vào những
định đề toán học nào khác ngoài những
định đề của chúng ta”
[Chương trước]
[Mục lục]
[Chương tiếp theo]
Chú thích
[1*]Tiếng Đức: Antinomie
[2*] Mẫu thuẫn về định ngữ,
tức là một mâu thuẫn phi lý kiểu như “hình
vuông tròn”, “thanh sắt bằng gỗ”,v.v..