Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam | Lữ Phương
CHỦ
NGHĨA MARX
VÀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VIỆT NAM
Lữ Phương
6
.
Chủ Nghĩa Dân Tộc Việt Nam
Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc
1. Dân tộc không phải là một thực tại tự nhiên
mà là một thực tại lịch sử. Trước khi có những tập hợp xã hội gọi là
dân tộc, đã có rất nhiều tập hợp xã hội khác: gia tộc, công xã, bộ
tộc, bộ lạc, lãnh chúa, nhà nước-đô thị, vương quốc, giáo triều v.v…
Đến một lúc nào đó dân tộc mới xuất hiện và nó phải tổ hợp được
những điều kiện căn bản sau đây để xuất hiện: một lãnh thổ và cộng
đồng người hợp nhất chấp nhận sự quản lý của một nhà nước thống nhất
gọi được là nhà nước-dân tộc. Cũng có thể kể thêm vào đó các
yếu tố ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, phong tục, truyền thống …
nhưng những nhân tố ấy không phải là quyết định: không thiếu gì dân
tộc tự định nghĩa như là sự hợp nhất của rất nhiều chủng tộc, ngôn
ngữ, văn hoá khác nhau. Những yếu tố này chỉ có được tầm quan trọng
khi nhà nước đã xây dựng xong: nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của
mình để quy định lãnh thổ và văn hoá, hiến chế… Để trở thành dân
tộc theo nghĩa đó, xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển nhất
định để lãnh thổ được mở rộng, những hoạt động kinh tế đã vượt qua
khỏi được tình trạng tự cung tự cấp theo kiểu bộ lạc hay làng xã để
giao lưu với những dân tộc khác. Là một thực tại lịch sử, sự tồn tại
của dân tộc là không vĩnh viễn, nhưng ngày nay ý nghĩa của nó vẫn
còn khá quan trọng trọng đối với đời sống con người.
2. Chủ nghĩa dân tộc đã ra đời cùng với sự
hình thành của các dân tộc, nó có tác dụng vĩnh viễn hoá các thực
tại dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một ý thức hệ. Những cái tầm
thường và bình thường của đời sống dân tộc đã được tô vẽ thành ra
những cái kỳ bí, cao thượng, thần thánh. Các phương thức huyễn hoặc
ấy ngày nay không có gì là bí mật: tuy khác nhau và nhiều vẻ, từ cổ
xưa cho đến hiện đại, từ hoang đường thần bí cho đến “khoa học”,
nhưng tất cả đều dựa trên thủ đoạn lấy một yếu tố nào đó hiện thực
hoặc tưởng tượng rồi thổi phồng lên thành cái duy nhất tuyệt đối,
bao trùm: thiên thư, khí thiêng sông núi, chủng tộc siêu đẳng, giai
cấp tiên tiến, sứ mệnh Lịch sử, v.v…
Sự huyền thoại hoá ấy có thể được tạo ra từ những
truyền thuyết trong dân gian, từ những tham vọng lập thuyết của
những nhà trí thức, nhưng tất cả những lý lẽ tản mác ấy đều đã được
các giai tầng cầm quyền gom góp lại, phát triển thêm để biến thành
một thứ ý thức hệ cầm quyền. Đối với một cộng đồng, huyền
thoại có thể chỉ là những mơ ước làm cho sang trọng hơn những cái
không có gì sang trọng, đối với những nhà trí thức đó có thể là
những giả thuyết đưa ra sau một quá trình tìm tòi; nhưng dưới sự
thao túng của các ý thức hệ cầm quyền thì các huyền thoại ấy đã được
sử dụng theo một mục đích mang tính chất quyền lực: hợp nhất lòng
người, tập hợp lực lượng để thống nhất dân tộc hoặc là để đương đầu
với những dân tộc khác. Nhưng mặt khác cũng qua đó khẳng định sự độc
tôn quyền lực của các nhà nước đối với xã hội: trong phạm vi một dân
tộc, khái niệm nhà nước-dân tộc là một phạm trù quản lý, tổ chức,
phát triển, nhưng cũng lại là một phạm trù thống trị. Dù dưới hình
thức nào thì chủ nghĩa dân tộc bao giờ cũng là sự khuếch đại về sự
tối thượng của những giá trị bản vị cục bộ, địa phương, đặc thù: chủ
nghĩa dân tộc chính là sự huyễn hoặc hoá về các thực tại dân tộc[1].
3. Theo những nhà nghiên cứu phương Tây thì dân tộc –
cũng như chủ nghĩa dân tộc – chỉ có thể là sản phẩm của thời hiện
đại, manh nha sau thời Trung cổ với sự tan rã của chế độ phong kiến,
để phát triển mạnh mẽ sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Theo quan niệm
đó, sự hình thành của các dân tộc cũng đồng nghĩa với sự hình thành
của giai cấp tư sản với nền kinh tế tư bản công nghiệp: các vương
triều – mà sau này bị cách mạng đánh đổ – thật sự lại chính là những
người đã góp phần thúc đẩy sự hình thành các dân tộc bằng những cuộc
mở mang lãnh địa của mình. Được luồng tư tưởng của những nhà Khai
sáng tiếp sức chủ nghĩa dân tộc đã tạo ra khí thế để thống nhất đất
đai, ngôn ngữ, hành chính, luật pháp, văn hoá. Nhưng đến thế kỷ 19
về sau thì chủ nghĩa dân tộc ấy đã trở thành chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc: quyện chặt vào các ý thức hệ về chủng tộc, địa lý,
tôn giáo… nó tạo ra lý luận về chiến tranh giành giật thuộc địa và
thống trị các nước chưa phát triển.
Như vậy phải chăng dân tộc và chủ nghĩa dân tộc đã
bắt đầu từ phương Tây với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản? Và phải
chăng ở các nước châu Phi, châu Á, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phát
triển thì cũng chưa có sự hình thành của các dân tộc và cái đi kèm
theo nó là chủ nghĩa dân tộc? Ở đây đã có hai vấn đề khác nhau và
đối với hai vấn đề này, những nhà nghiên cứu của chúng ta đã không
có câu trả lời rõ rệt: không khẳng định hẳn rằng khi những nước châu
Phi, châu Á chưa có chủ nghĩa tư bản thì cũng chưa có xu hướng
hình thành các dân tộc, nhưng họ lại cho rằng chủ nghĩa dân
tộc ở những vùng này chỉ xuất hiện vào thế kỷ 20 với phong trào
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập theo chiều hướng
hiện đại hoá[2].
Vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở ngoài nền văn
minh phương Tây vì vậy vẫn còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhưng
nhìn vào lịch sử những dân tộc châu Á, người ta thấy dân tộc đã hình
thành ngay trong thời kỳ trước khi có chủ nghĩa tư bản phát triển: ở
đây sự ra đời của một nhà nước thống nhất đã là yếu tố quyết định,
chứ không phải chỉ là kinh tế hay lãnh thổ. Theo nghĩa này, dân tộc
Trung quốc đã hình thành từ đời Tần Thuỷ Hoàng với chính sách “đại
nhất thống”, một mặt be bờ ngặn chặn “rợ” phương Bắc đồng thời đi
khai hoá bọn “man” ở phương Nam: chủ nghĩa dân tộc Trung quốc ngay
từ đầu đã là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Nhưng do lẽ là một dân
tộc đã biến được văn hoá thành văn minh
sớm, đặc biệt đã tạo ra chữ viết thống nhất cùng với ý thức hệ cầm
quyền có giá trị phổ biến (Nho giáo) rất thuận lợi cho việc xây dựng
nhà nước nên văn minh Trung Hoa đã trở thành mô hình để nhiều nước
xung quanh tiếp nhận. Chính là từ nguồn vay mượn tự nguyện này mà
nhà nước Nhật bản hình thành vào thế kỷ thứ 7 với sự ra đời của chế
độ quân chủ tập quyền, mở đầu với dòng họ Xôga sau đó được tiếp nối
với triều đại Taica
[3].
4. Trường hợp Việt Nam không giống với nước Nhật: nền
văn minh Trung Hoa tràn sang Việt Nam không phải qua con đường giao
tiếp bình đẳng mà là qua chính sách đồng hoá bằng bạo lực cực kỳ dai
dẳng. Để khẳng định sự tồn tại của mình, Việt Nam đã phải chiến đấu
không ngừng nghỉ trong suốt hai nghìn năm. Vấn đặt ra ở đây là trong
tình hình ấy dân tộc Việt Nam đã hình thành từ lúc nào? Trong sách
báo bàn luận về vấn đề này, các khái niệm liên hệ vẫn chưa được biện
biệt rạch ròi để có thể trả lời cho chính xác.
Nước
là khái niệm được dùng nhiều nhất để chỉ thị dân tộc,
theo ý nghĩa yêu dân tộc cũng là yêu nước. Nhưng phân
tích thì thấy nước có rất nhiều nội dung: có thể là một thị
tộc (clan), một tộc người (ethnie), một bộ lạc (tribu) hoặc một liên
minh bộ lạc. Ngoài ra nước cũng có thể hiểu như một triều
đại, như nước của nhà Nguyễn, nước của nhà Lê (nhớ
nước đau lòng con quốc quốc). Rõ ràng cùng một chữ nước nhưng
nội dung của chúng rất khác nhau: nước-bộ lạc, nước-thị tộc với
người đứng đầu là tù trưởng không thể nào đồng nghĩa với nước của
một triều đại lãnh đạo bởi một ông vua. Sự biện biệt như trên là rất
cần thiết để vấn đề được xác định chặt chẽ hơn: một dân tộc hiểu
theo nghĩa một nhà nước-dân tộc không thể nào hình thành được
trong thời tiền sử, sơ sử. Triều đại vua Hùng không thể gọi được là
một “quốc gia” – dù chỉ là “phôi thai”[4]
– và dân tộc Việt Nam chỉ có thể hình thành vào thời kỳ đã giành
được độc lập với một nhà nước thống nhất. Vào lúc nào? Nếu cho rằng
chỉ có chủ nghĩa tư bản mới có dân tộc thì chưa bao giờ chúng ta có
dân tộc cho đến khi Đảng cộng sản ra đời với nội dung hoàn toàn mới
mẻ gọi là dân tộc xã hội chủ nghĩa[5].
Nhưng nếu thừa nhận định nghĩa về dân tộc đã nói từ dầu thì sẽ rất
dễ dàng đồng ý với những ai cho rằng dân tộc Việt Nam đã chỉ hình
thành sau năm 939, khi đất nước bước vào giai đoạn tự chủ. Chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam cũng đã ra đời vào cái trục thời gian đó và đã mang
tính chất rất đặc sắc của chế độ phong kiến Việt Nam.
Chủ nghĩa dân tộc phong kiến
1. Chủ nghĩa dân tộc phong kiến Việt Nam đã dồn
hết lý lẽ để khẳng định sự độc lập của Việt Nam đối với Trung hoa:
thần phục Trung hoa về mặt ngoại giao, văn hoá nhưng được tồn tại
riêng biệt về mặt chủ quyền và lãnh thổ. Chúng ta thấy có hai động
lực bên trong đã thúc đẩy thành thái độ ấy:
a) Sự cảm nhận không rõ ràng nhưng cũng rất hiển
nhiên về thực tại riêng biệt của Việt Nam đối với Trung hoa. Chính
sách đô hộ và đồng hoá tuy có là làm biến chất hết sức nặng nề bản
sắc của Việt Nam, nhưng bản sắc ấy vẫn được bảo tồn trong tiếng nói,
phong tục, thờ cúng của dân gian, trong ký ức của cộng đồng, tất cả
đã biểu hiện rất rõ rệt trong những truyền thuyết về nguồn gốc dân
tộc. Chính đây là sức mạnh ngầm bền bĩ đã tạo nên liên tục những làn
sóng phản kháng, khởi nghĩa chống xâm lược rất quyết liệt, cuối cùng
giành lại được chủ quyền.
b) Việc giành quyền độc lập ấy hoàn toàn không có
nghĩa là phục hồi lại được cái mô hình xã hội cũ trước khi bị đô hộ:
quá khứ ấy đã chỉ còn là những mảnh rời, những hoài niệm. Một mô
hình mới về xây dựng văn hiến do Trung Hoa mang lại trong thời đô hộ
đã trở nên một thứ hình mẫu vừa thực tế vừa tiến bộ có thể căn cứ
vào đó để xây dựng nhà nước.
2. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ
[6]
mà các sử gia đến thế kỷ 15 mới đưa vào chính sử
[7]
đã chứng tỏ rằng chủ nghĩa dân tộc Việt Nam chỉ hình thành rõ rệt
khi chế độ phong kiến Việt Nam đã xây dựng xong. Tính chất hỗn hợp
về văn hoá trong quá trình hình thành dân tộc khi Việt Nam quan hệ
với Trung Hoa đã biểu hiện qua truyền thuyết ấy như sau:
– Thuỷ tổ của Việt Nam là Trung Hoa: Đế Minh, cháu ba
đời của Viêm đế Thần nông có hai người con. Một là Đế Lai, sau này
trị vì phương Bắc. Một là Lộc Tục, lai với một người con gái phương
Nam, được giao cho trị vì nước Xích quỷ ở phương Nam. Lộc Tục đã
cướp Âu Cơ làm vợ – bà này vốn là vợ của Đế Lai trong một chuyến đi
chơi phương Nam, – sau đó sinh ra trăm con trai, 50 theo Lôc Tục đi
về phía biển, 50 theo Âu Cơ lên rừng. Hùng Vương, người con trưởng
của 50 người theo mẹ, chính là vị vua đầu tiên của Việt Nam. Ý
nghĩa của mối quan hệ huyền thoại về huyết thống này là rất rõ rệt:
người Việt Nam chính là anh em cùng cha khác mẹ với người Trung Hoa.
– Bờ cõi Việt Nam mà truyền thuyết nói đến vừa bao
gồm là toàn bộ xứ Bách Việt đã trở thành Trung Hoa: Tây giáp Ba
Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam tiếp cận Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành)
và đó chính là toàn bộ miền Giang Nam và Lãnh Nam của Trung quốc cho
đến Hoành Sơn của ta. Tuy vậy khi xác định cụ thể 15 bộ riêng
biệt của Việt Nam thì lại rất mơ hồ, tên các “bộ” ấy không thống
nhất và điều đáng chú ý lại không bao gồm được toàn thể những nước
Bách Việt nói trên mà chỉ là “phạm vi của miền Bắc nước Việt Nam
ngày nay cùng với một dải ở miền Nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc” [8].
Sự lộn xộn về địa giới này của truyền thuyết – cùng với huyền
thoại về Đế Minh người cháu ba đời của Viêm đế Thần nông nói trên –
chỉ cốt chứng minh cho luận điểm: tuy ta ở phía Nam nhưng nguồn gốc
của ta vẫn là Trung Hoa, sự khác nhau chỉ là lãnh thổ. Việt
Nam là người đồng chủng lẫn đồng văn với Trung Hoa vì vậy không thể
bị xem là Man di, mà phải được tồn tại một cách bình đẳng như một
nước chư hầu[9].
3. Ý nghĩa hàm hồ của truyền thuyết bị biến
thành lịch sử ấy cũng đã biểu hiện trực tiếp và minh bạch trong các
phát biểu của hết thế hệ này đến thế hệ khác những nhà Nho:
– “Người có Bắc Nam, đạo kia không khác. Nhân nhân
quân tử đau đau là không có. Nước An nam tuy xa ngoài Ngũ Lĩnh mà
tiếng là nước thi thư, những bậc trí mưu tài thức đời nào cũng có”
(NguyỄn Trãi)
– “Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, là trời đã phân
chia giới hạn Nam Bắc. Thuỷ tổ của ta dòng dõi Thần Nông, thế 1à
trời đã sinh ra chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế
một phương”
(Ngô Sĩ Liên).
– “Khắp dưới gầm trời, suốt cả cõi đất, nơi nào không
phải con cháu, dòng dõi của Ngũ đế, Tam vương? Đất phân biệt nhưng
dân không phân biệt; truy nguyên cõi gốc mà nói thì loài người cũng
chỉ là một mà thôi (…) Vậy thì ở đau cũng chỉ là một tổ, ở đau cũng
là một thầy”
(TỰ ĐỨc).
– “Sử chép: Dân Lạc Việt không có lễ phép giá thú thì
việc khác cũng có thể biết được. Hơn nữa gần đây, một vài người Giao
chỉ còn sót lại, số lượng không bằng một phần trăm dân số trong
nước, lại rất đần độn không biết gì, họ như người thời thái cổ.
Ngoài ra những người lanh lợi khôn ngoan thì đều là hỗn hoá chủng
tộc với người Hán Trung Quốc”
(Phan BỘi Châu).
4. Tất cả những cái gọi là “văn hiến”, “thi thư” mà
chế độ phong kiến xây dựng nên cho đất nước suốt một nghìn năm độc
lập rút lại không có gì khác hơn là mong được làm Tàu về văn hoá.
Một nhà nghiên cứu đã diễn đạt hiện tượng này như sau:
“Lịch sử của ta là lịch sử chống xâm lược phương Bắc,
nhưng khi giành được tự chủ thì phải tiếp thu tổ chức hành chánh có
sẵn, lại không có mô hình tổ chức nhà nước, xã hội nào khác ngoài mô
hình Trung quốc.Cứ nhìn quan chế luật lệ, cách học hành thi cử cho
đến nghi lễ, thể thức giấy tờ của các triều đại, từ Lí, Trần cho đến
đời Nguyễn(…) thì đủ rõ văn hoá Hán lớn đến mức nào. Ta chống Trung
quốc về mặt nó là kẻ xâm lược, trong tâm lý xã hội dân ta có ghét
“chú chiệc”, nhưng đối văn hoá Trung quốc thì vẫn coi là cao hơn,
vẫn muốn học tập và mong ta sánh được với họ. Ta vẫn coi chữ Hán là
chữ ta, thánh hiền Nho gia là chung cho tất cả.Nho giáo đã được các
triều đại độc lập đưa lên địa vị chính thống, nó đi vào cuộc sống,
đi vào tâm hồn, từ triều đình đến làng xã, đến gia tộc, gia đình, từ
chính trị đến văn hoá. Ý thức hệ chính thống không chỉ tác động đến
giai cấp thống trị mà đến toàn bộ xã hội. Cho nên, không nên bỏ qua
thực tế là, trong suốt thời kỳ độc lập trước đây, lòng yêu nước, tự
hào dân tộc không hướng vào chỗ đoạn tuyệt với, cự tuyệt với Nho
giáo mà cố gắng tham gia bình đẳng với Trung quốc Tư văn, trước
thánh hiền của Nho giáo”
[10].
5. Thật ra, trong lĩnh vực văn hoá, không phải là
không có hiện tượng khai triển, bàn bạc thêm bớt khía cạnh này nọ để
địa phương hoá cái đã tiếp nhận, nhưng những nguyên lý thì không bao
giờ dám đụng đến. Ngoài việc phải đánh nhau chí tử để bảo vệ lãnh
thổ, nếu có đụng chạm gì về mặt này thì cũng chỉ là những chuyện
tiếu lâm kể ra với nhau để chọc quê “người anh em” phương Bắc cho
vui thôi. Điều này đã biểu hiện khá ngộ nghĩnh trong nền văn chương
“yêu nước” bình dân do các nho sĩ chưa thành đạt sáng tác: đem chữ
nghĩa thánh hiền để chơi trò chơi đó. Khác hẳn với sự trịnh trọng
của văn chương cung đình, thứ chữ nghĩa được sử dụng trong các
truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn… đã được dẫn ra để biếm nhẽ về sự thua
kém trí tuệ của các ông sứ hoặc những ông quan Tàu so với các ông
trạng Việt Nam. Nhưng điều đó chẳng có thể là bằng cớ nghiêm chỉnh
biện minh được cho thái độ tự nâng mình lên hàng đồng chủng lẫn đồng
văn của Việt Nam với Trung Hoa: một cách rất tự nhiên, bất cứ người
Việt Nam bình thường nào, những người không bị nhiễm thứ văn hoá cầm
quyền của chế độ phong kiến, cũng hiểu rằng mình không phải thuộc
dòng dõi Trung Hoa và nếu văn hiến của Việt Nam là nương theo mô
hình Trung hoa thì đó cũng chỉ là cái mà ta đi học của người, có thể
là “cái cần thiết” bù đắp cho cái thiếu, cái mất của ta, nhưng chẳng
có gì đáng tự tôn tự phụ cả. Sự lên gân ồn ào ấy thật sự chỉ là tính
chất của ý thức hệ cầm quyền: nó là chủ nghĩa dân tộc phong kiến
mang tính chất hai mặt của một nước nhỏ bị thống trị lâu đời – bên
ngoài là sĩ diện “quốc gia”, nhưng bên trong là sự tự ti trầm trọng
về sự trống vắng của nền văn hoá bản địa đã bị vùi dập sau một nghìn
năm bị đô hộ
[11].
Chủ nghĩa dân tộc hiện đại
Không phải như những nhà nghiên cứu cho rằng chủ
nghĩa dân tộc hiện đại của châu Á đã bắt nguồn cảm hứng từ chủ nghĩa
dân tộc của phương Tây, đã sinh thành trong trong quá trình chống
chủ nghĩa thực dân để giành độc lập dân tộc, chủ nghĩa dân tộc hiện
đại, ở vùng đất này, đã chỉ là sự tiếp nối chủ nghĩa dân tộc phong
kiến trong điều kiện lịch sử mới: khẳng định chủ quyền dân tộc với
các thế lực ngoại bang, trên cơ sở đó chuyển đổi một nhà nước-dân
tộc mang nội dung phong kiến, cổ truyền sang một nhà nước-dân tộc
hiện đại mang nội dung công nghiệp hoá và dân chủ hoá.
1.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc mới này đã bắt nguồn từ nhận thức của
chính những nhà Nho, sau rất nhiều cố gắng chống thực dân để phục
hồi lại vương triều cũ dựa trên ý thức hệ Nho giáo mượn của Trung
Hoa. Nhận thức về một đất nước mới, đi theo con đường xây dựng mới
chỉ ra đời khi toàn bộ nền “văn hiến” cũ đã tỏ ra hoàn toàn bất lực
trong việc chống lại sự xâm lược của phương Tây: không phải chỉ ở
Việt Nam mà còn cả ở Trung Hoa nguồn cội nữa. Nhưng do bản thân nền
văn hoá về quyền lực của Việt Nam là một thứ ý thức hệ vay mượn, lệ
thuộc thần phục, tự mình không thể phát khởi được những canh tân để
tự đổi mới, nên nhận thức về một vận mệnh mới cho đất nước của những
nhà Nho Việt Nam vẫn cứ phải chạy theo đuôi Trung Hoa với những nỗ
lực canh tân của họ. Nhưng dù vậy, ý chí tự trọng, tự tôn, ý chí
khẳng định sự tồn tại tự chủ, độc lập của chủ nghĩa dân tộc phong
kiến vẫn hết sức mãnh liệt. Đó chính là động lực thúc đẩy những nhà
Nho đến chỗ nhận thức lại, dù là muộn màng, toàn bộ quá khứ theo một
hệ thống giá trị khác. Đó là một ý thức tự phê phán đau đớn nhưng
cũng rất dũng cảm, sáng suốt. Nó mở đường để đưa dân tộc vào một
chân trời, một vận mệnh mới hoàn toàn, một cuộc cách mạng nhẩy vọt
về tinh thần chưa từng có: từ giã thân phận một thứ chư hầu của
người hàng xóm phương Bắc để tiếp xúc với cả một nhân loại rộng lớn,
có những nền văn hiến khác, phức tạp, kỳ lạ hơn nhiều lần.
Tiếng súng đại bác của phương Tây xâm lược ở đây đã đóng vai trò
thức tỉnh.
2. Sự ra đời của một tầng lớp thị dân mới, có điều
kiện tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng khác nhau của nhân loại,
đã đẩy đi rất xa những ý tưởng canh tân của những nhà Nho mở đường.
Chủ nghĩa dân tộc mới cũng đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều: nó đã
bị phân hoá thành những ý thức hệ khác nhau với những quan niệm về
quyền lực và phương pháp xây dựng khác nhau để hiện đại hoá đất
nước: bên cạnh chủ trương duy tân bạo động còn có xu hướng cải cách
ôn hoà, bên cạnh chủ nghĩa nghĩa tam dân theo gương nước Trung Hoa
dân quốc cũng đã có chủ nghĩa cộng sản theo gương Nga xô viết… Những
vấn đề văn hoá của Việt Nam (như lý thuyết về nguồn gốc dân tộc, mối
quan hệ về văn hoá với Trung Hoa phong kiến, vấn để bản sắc dân
tộc…) mà trước đây chỉ được suy lý trên truyền thuyết và huyền thoại
thì nay đã được đem ra xem xét lại dưới ánh sáng của những kiến giải
khoa học thực nghiệm tiếp thu được từ phương Tây (khảo cổ, nhân học,
lịch sử, xã hội…), tạo ra những trường phái khác nhau với những cuộc
tranh luận đưa đến những kết luận gợi mở nhiều hơn là khép lại bằng
những kết luận giáo điều. Sự thần phục về tư tưởng đối với những giá
trị truyền thống cũng đã được pha loãng khi đứng bên cạnh những lời
lẽ cổ xuý cho nhân quyền và dân quyền, cho sự tự do của những cá
nhân công dân bình đẳng trước pháp luật… Tất cả những quan
niệm mới mẻ trên đã thông qua sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân mà
phổ biến vào xã hội: giống như Trung Hoa hai nghìn năm trước đây, sự
thống trị của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra cho người Việt Nam những
vũ khí tinh thần để chống lại nó. Chỉ có điều khác biệt quan trọng
này: thoát khỏi huyền thoại về sự đồng chủng, chủ nghĩa dân tộc Việt
Nam cũng đã thoát khỏi sự thần phục về văn hoá với Trung Hoa, do đó
đã càng ngày càng nhận ra bản sắc của mình một cách đầy đủ hơn.
3. Nhưng cũng chính trong cuộc tranh đấu ấy, những
huyền thoại của chủ nghĩa dân tộc hiện đại đã được tạo ra. Cuộc
chiến đấu chống xâm lược Trung Hoa đã được đề cao hết mức để tạo ra
truyền thống chung nối kết quá khứ với hiện tại: Trung Hoa đã được
mô tả như kẻ thù truyền kiếp để nuôi dưỡng lòng yêu nước chống giặc
và cũng chính vì vậy mà những gì tích cực tiếp thu được trong thời
bị đô hộ để sau này dựng nước có nhiều lúc đã bị làm suy giảm ý
nghĩa. Những huyền thoại cũ vẫn được nhắc lại để “giáo dục thanh
niên” nhưng đã mất đi nội dung nguyên sơ của nó. Nguồn gốc Viêm Đế
Thần Nông của những người sinh ra dân tộc Việt Nam là Lạc Long Quân
và Âu Cơ đã bị lờ đi trong việc giảng dạy để chỉ giữ lại sự thanh
quý về cái gọi là “con Rồng cháu Tiên”. Sự chia rẽ từ nguồn cội về
sự tương khắc của hai thứ vật tổ Rồng, Tiên ấy đã được cố ý không
nhắc tới để chỉ giữ lại ý nghĩa “đoàn kết” của cái gọi là “một bọc
trăm trứng”. “Niềm tự hào” Việt Nam đã được thổi phồng lên quá đáng
khi người ta tìm ra được những vết tích chứng tỏ Việt Nam đã là một
thực thể riêng biệt trước khi bị Tàu thống trị. Nền văn hoá Đông sơn
của vua Hùng thời Lạc Việt đang còn sống đời sống của những bộ lạc
đã được đẩy lên thành một “quốc gia” đã có “văn hiến”: những trống
đồng đã được xem như bằng chứng không những để Việt Nam không còn là
hậu duệ của Thần Nông mà còn trở thành trung tâm văn hoá của cả vùng
Đông Nam Á! Hơn thế nữa: những di vật đào được của bầy người
nguyên thuỷ vào buồi đầu thời đá cũ ở Lạng sơn, Thanh hoá đã là dịp
để những nhà viết sử khẳng định “Việt Nam là một trong những quê
hương của loài người”
[12],
với hàm ý cho rằng người Việt Nam ngày nay cũng chính là người Việt
Nam đã ở trên mảnh đất này đã có mấy vạn năm về trước, nối liền nhau
một mạch, không thiên di đi đâu cả và cũng chẳng bị ai đến giành đất
cả.
Vẫn còn không ít người vẫn dốc hết sức bình sinh ra
ca ngợi sự kỳ diệu của đạo Nho. Nhưng đấy không phải là thứ văn hoá
Tàu mà ta học được. Nho giáo đó chính là cái của ta, gọi là
Việt Nho: trước đây ta ở bên Tàu, ta sáng tạo ra Nho giáo, sau đó ta
bị Tàu đánh đuổi và chiếm đoạt mất
[13]!
Thật hết sức hào hùng nhưng cũng thật là bi thảm: bắt chước dân Do
thái dựa vào Cựu ước để phục quốc, chúng ta hãy dựa vào những hoài
niệm về Việt Nho ấy để phục hồi lại cái linh hồn dân tộc đã bị lạc
mất mấy nghìn năm trước đây! Không ít người chia sẻ cái ý kiến đầy
tâm huyết đó. Nhưng cũng không ít người chống lại: không có đạo Nho,
Việt Nam vẫn có thể tự hào với những giá trị tinh thần hết sức sau
sắc của mình: những hoa văn trên các trống đồng của ta – giả sử là
của ta – đã chứa đựng những biểu tượng triết học cực kỳ uyên áo, cần
phải được khai triển để khẳng định bản sắc. “Bản sắc” bao giờ cũng
là nỗi băn khoăn dai dẳng của những nhà ý thức hệ Việt Nam. Bản sắc
là tính đồng nhất của một dân tộc, nó tạo ra cái đặc trưng của dân
tộc đó, không ai phủ định được. Nhưng khi bản sắc được đưa lên thành
quốc hồn, quốc tuý để cổ vũ cho cái gọi là “niềm tự hào dân tộc” thì
bản sắc đã trở thành ý thức hệ. Tuy vậy, khi phải nói rõ cái
bản sắc đáng tự hào ấy là gì thì bàn luận mãi người ta vẫn
không thể nào vượt thoát ra mấy sáo ngữ yêu nước thương nòi, nhân
ái, cần cù, lạc quan, thiết thực… Và để có được những danh từ ấy, có
người đã sử dụng phương pháp so sánh đối lập những phạm trù trừu
tượng và giả tạo như Đông/Tây, Nam/Bắc. Ta là Đông cho nên ta thâm
trầm, tổng hợp, trực giác, còn họ là Tây nên họ thiên về phân tích,
duy lý, duy vật… Ta là Nam cho nên ta là nông nghiệp, ấm áp, tình
cảm, lãng mạn, thiên về nữ tính, còn họ là Bắc nên họ là du mục,
lạnh lẽo, lý trí, cứng cỏi…[14]
Chủ nghĩa địa lý, chủ nghĩa khí hậu, chủ nghĩa chủng tộc ở đây đã
góp phần củng cố cho các quan niệm thiên lệch về bản sắc. Đó không
phải là lý thuyết tương đối văn hoá trong quan niệm của những
nhà nhân loại học: đó là sự đề cao một cách phiến diện về sự độc đáo
của những bản vị cục bộ. Thái độ tự nhận tức lại mình, phê phán
những tiêu cực lạc hậu trong truyền thống một thời được những nhà
Nho duy tân phát khởi và một số nhà nghiên cứu tiếp nối[15]
dần dà đã bị gác lại để cổ xuý cho những thứ suy lý về bản sắc theo
cung cách đó. Thiên hướng ca ngợi quá đáng này, nếu đã diễn ra
có chừng mực trong giới nghiên cứu độc lập thì lại trở thành sự hô
hào hết sức ồn ào trong những cương lĩnh của các thế lực chính trị,
nhất là khi các thế lực ấy đã có điều kiện để bước lên vị trí cầm
quyền.
Chủ nghĩa dân tộc cộng sản
1. Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam cũng chỉ là một
thứ chủ nghĩa dân tộc hiện đại với tất cả những thuộc tính nói trên.
Nhưng do lẽ lý luận của chủ nghĩa cộng sản mácxít đã phủ định hoàn
toàn mọi hình thức chủ nghĩa dân tộc cho nên chủ nghĩa dân tộc cộng
sản đã phải tìm cách tự che dấu thực chất của nó là thực chất về sự
suy thoái có tính chất nguồn cội của chủ nghĩa quốc tế vô sản của
Mác khi được đem “vận dụng” vào nước Nga.
Chúng ta biết rằng đối với Lênin, người khai sinh ra
cách mạng Tháng Mười, trung thành với Mác, đã không bao giờ tha thứ
mọi biểu hiện mang tính “chủ nghĩa dân tộc” trong phong trào vô sản
thế giới. Những ý kiến của ông về “quyền tự quyết của các dân tộc”
chỉ là sách lược đối với phong trào đấu tranh đang trỗi dậy ở những
nước lệ thuộc và thuộc địa. Đó là sự lợi dụng chủ nghĩa dân tộc
trong phong trào này để chống chủ nghĩa đế quốc mà ông cho là biểu
hiện mới của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Để đạt được mục đích này,
ông cho rằng phải có sự liên kết giữa giai cấp công nhân ở những
nước tư bản với tất cả các dân tộc ở những nước bị chủ nghĩa tư bản
ấy thống trị. Nếu cuộc liên hiệp đấu tranh ấy thành công thì các dân
tộc bị thống trị này sẽ nương theo cuộc cách mạng vô sản để tiến
thẳng lên mô hình mácxít về phát triển, không cần đi qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa. Như vậy, trong quan niệm của Lênin, phong trào
chống đế quốc của các dân tộc bị áp bức chỉ là một sự dọn đường cho
chủ cộng sản thế giới, và phải tuân phục chặt chẽ chiến lược giải
phóng thế giới ấy. Không có sự thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế đó,
cuộc đấu tranh của các dân tộc sẽ không thể nào thoát khỏi được
những bế tắc của chủ nghĩa phong kiến hoặc tư bản lạc hậu.
Chúng ta cũng biết rằng cái thế giới giả định sẽ hình
thành ấy của Lênin đã không bao giờ xảy ra. Cuộc cách mạng tháng
Mười không hề làm phát khởi được trên thế giới bất cứ cuộc cách mạng
vô sản nào đúng nghĩa mácxít cả. Bắt buộc phải gác giấc mơ của Lênin
lại một cách vô hạn định, Stalin đã chọn con đường xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trong một nước, và để tạo ra sức mạnh cho bản thân,
đã phải giải quyết hàng loạt những vấn đề cực kỳ gay gắt theo phướng
hướng phản mácxít: bên ngoài thì mệnh danh là tiền đồn đầu tiên của
chủ nghĩa xã hội cần sự ủng hộ của toàn bộ phong trào chống chủ
nghĩa đế quốc và tư bản nhưng bên trong thì lại lấy quyền lợi của
mình làm chuẩn mực buộc các nước khác phải thần phục. Các nước “xã
hội chủ nghĩa”quây quần xung quanh Liên xô thực sự chỉ là những nước
chư hầu xoay quanh một đế quốc mới. Chủ nghĩa dân tộc cộng sản ở đây
đã đồng nghĩa với với chủ nghĩa bành trướng nước lớn. Và đó chính là
nguyên nhân sau sắc đã dẫn đến những tranh chấp, phân liệt không lúc
nào ngừng nghỉ trong cái gọi là “phe” xã hội chủ nghĩa, diễn ra dưới
rất nhiều hình thức, từ chỗ mạt sát nhau về lý lẽ đến chỗ chém giết
nhau bằng bạo lực. Tất cả những thứ lý luận xuất hiện liên tục trong
phong trào cộng sản quốc tế như chủ nghĩa Tito, chủ nghĩa Mao, “chủ
nghĩa cộng sản mang khuôn mặt người” ở Đông Âu v.v… đều chỉ là sự
biểu hiện cho sự phân liệt của thứ chủ nghĩa dân tộc cộng sản đó.
Tất cả đều cổ vũ chuyên chính vô sản để độc tôn quyền lực nhưng tất
cả đều theo đuổi đường lối lấy quyền lợi dân tộc riêng biệt làm
chuẩn mực cao nhất để hành động.
2. Ra đời trong tình thế đó, chủ nghĩa cộng sản Việt
Nam hoàn toàn chẳng dính dấp gì đến cái gọi là chủ nghĩa quốc tế vô
sản của Mác. Điều này đã biểu hiện rất hiển nhiên trong phong trào
cộng sản Việt Nam ngay từ sự chọn lựa ban đầu về lý luận của người
khai sinh ra nó
[16]cho
đến những hành động về sau: tập trung hết sức mạnh chống các thế lực
xâm lược từ ngoài (Pháp, Mỹ, Nhật) và trong khi hành động như vậy đã
phải luôn luôn tự lực một mình chèo chống để giữ độc lập trước những
áp lực, những lôi kéo của những quốc gia giành quyền làm bá chủ
phong trào cộng sản quốc tế (chủ yếu là sự tranh giành quyết liệt
giữa Liên xô và Trung quốc). Nếu có những lúc nào thuận buồm xuôi
gió, được “phe ta” ủng hộ thì cái giá phải trả lại quá đắt. Để có
được đại bác từ Trung quốc đưa sang hỗ trợ cho cuộc bao vây lòng
chảo Điện Biên Phủ, Đảng cộng sản Việt Nam đã chấp nhận cho chủ
nghĩa Mao tràn vào Việt Nam. sau 1975, để vay được 10 tỷ rúp của
Liên xô phục vụ cho sự nghiệp “xây dựng xã hội chủ nghĩa”, Đảng cộng
sản Việt Nam đã chấp nhận làm “tiền đồn” cho Liên xô chống “chủ
nghĩa bành trướng Bắc Kinh”, đưa đến cuộc chiến tranh biên giới với
Trung quốc (1979) và xâm lăng Campuchia, làm cho Việt Nam rơi vào
tình cảnh cô lập, khó khăn. Cái nghĩa tình gọi là “quốc tế vô
sản” ấy không thắm thiết như người ta đã tưởng lúc ban đầu: theo
cách diễn tả của Tố Hữu, một nhà ý thức hệ quan trọng của Đảng thì
nó giống như chuyện “sớm nắng chiều mưa” thôi. Mảnh đất màu nuôi
dưỡng sự lớn mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam không phải là chủ nghĩa
cộng sản mà là chủ nghĩa dân tộc; chính là chủ nghĩa dân tộc đã được
Đảng cộng sản khai thác để phục vụ cho mục tiêu quyền lực của mình.
3. Thiết tưởng điểm xuất phát ấy là rất quan trọng để
người ta tìm hiểu thêm chủ nghĩa dân tộc cộng sản Việt nam. Làm sao
giải thích được sự kiện “hàng hàng lớp lớp” những con người đã ra
đi, chiến đấu và hy sinh “dưới ngọn cờ của Đảng” trong khi họ chẳng
hiểu gì về chủ nghĩa cộng sản nhưng lại biết rất rõ rằng họ đã
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”? Thứ ma tuý nào, sự lừa bịp nào
tạo ra được những hành động ấy? Làm sao không đếm xỉa đến những
thắng lợi do những người cộng sản mang đến cho dân tộc qua những
cuộc chiến đấu chống lại liên tục các thế lực thực dân và đế quốc đã
xâm lược Việt Nam vào thế kỷ này? Làm sao phủ định được sự đóng góp
của cả một kho tàng sưu tầm, bảo quản, dịch thuật được về cái vốn
văn hoá truyền thống của dân tộc, bên cạnh những công trình khai
quật đồ sộ góp phần rọi sáng thời sơ khai của Việt Nam do những nhà
nghiên cứu cộng sản thực hiện từ 1954 đến nay? Nhưng đó hiển nhiên
không hoàn toàn là chủ nghĩa dân tộc đơn thuần: đó là chủ nghĩa
dân tộc cộng sản, là ý thức hệ dân tộc cộng thêm vào ý thức hệ
cộng sản. Nó chẳng có gì liên quan đến chủ nghĩa cộng sản mácxít mà
chỉ là một thứ chủ nghĩa Mác suy thoái bắt đầu từ Lênin, qua Stalin
đã biến thành chủ nghĩa dân tộc toàn trị. Chủ nghĩa dân tộc cộng sản
Việt Nam cũng đã mang tính chất stalinít đó. Chúng tôi đã chứng minh
rất nhiều lần: tất cả những nhãn hiệu mệnh danh là nhân đạo, khoa
học, chủ nghĩa xã hội mà những nhà lý luận của Đảng không ngớt tán
dương thực chất chỉ là những danh từ, những khái niệm có tính chất ý
thức hệ.
4. Mấy chữ “chủ nghĩa yêu nước” mà những nhà lý luận
cộng sản coi rất quan trọng để hình thành luận điểm gọi là “kết hợp
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội” cũng chỉ là một khái niệm
có tính chất như vậy: nó được sử dụng một cách cố ý
[17]
để biểu hiện nội dung thực sự của cái mà chúng ta đã gọi là chủ
nghĩa dân tộc cộng sản. Tất cả đều lấy dân tộc làm bản vị để xưng
tụng, ca ngợi hết lời. Nhà Trần đánh bại quân Mông để cứu cả Đông
Nam Á. Cách mạng 1945 là đột phá khẩu tiêu diệt chủ nghĩa thực dân
Pháp mở màn cho sự suy sụp của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế
giới. Nhân danh cho cả bốn ngàn năm văn hiến mà cũng nhân danh cho
cả loài người tiến bộ để chống Mỹ. Ta vì ta mà cũng vì nghìn
triệu trên đời. Trong thời kỳ ấy, toàn bộ phong trào cộng sản
thế giới đều bệ rạc hết: Liên xô và Tây Âu là “xét lại”; Tàu thì
“phản bội” trở về chủ nghĩa Đại Hán bành trướng, cộng sản ở những
nước tư bản thì cải lương, duy chỉ có ta là sáng tạo vô song, chỉ có
ta mới hiểu sau sắc để có thể trung thành triệt để được với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Ngày nay, trước sự sụp đổ đầy thảm kịch của phe xã
hội chủ nghĩa, sở dĩ ta giữ vững được ngọn cờ là cũng do tài trí của
Đảng ta: ta vừa biết kiên trì nguyên lý đồng thời cũng biết mềm dẻo
thích ứng. Nói cách khác, trong bất cứ lĩnh vực nào, trong “chiến
đấu” cũng như trong “xây dựng” bao giờ ta cũng nhất. Những ai không
quen với cách ăn nói như vậy sẽ dễ dàng nhìn thấy ở đấy một thái độ
ngạo mạn chẳng có gì là “quốc tế vô sản” cả. Thật sự thì đó chỉ là
cách nói theo kiểu “dân tộc chủ nghĩa” thôi. Trong thực tế, không
nơi nào nhờ học thuyết Mác-Lênin mà đảng cộng sản Việt Nam thành
công. Bất cứ ở đau, tất cả những cái gọi là “thành công” đều xuất
phát từ chỗ Đảng đã đi ra ngoài quỹ đạo của cái gọi là “chủ nghĩa
cộng sản” nếu không nói là đi ngược lại với những nguyên lý làm nên
chủ nghĩa cộng sản. Nói cho cùng thì cái gọi là chủ nghĩa cộng sản
theo nghĩa mácxít đó chẳng bao giờ tồn tại ở Việt Nam, cũng như nó
chưa hề tồn tại ở đau trên hành tinh này, ngoài những cuốn sách
triết lý-chính trị của Mác và Ăngghen. Nhưng bất chấp thực tế, do
nhu cầu về quyền lực nên cứ phải nói cho lấy được, mục đích không có
gì khác hơn là để xài được mấy chữ “chuyên chính” của Mác, khỏi phải
chia quyền với ai.
5. Mô hình cộng sản dân tộc đó là hoàn toàn có thể
giải thích được. Tính chất hiện đại của mô hình đó đã biểu hiện ở nỗ
lực muốn công nghiệp hoá mau chóng một đất nước lạc hậu nghèo nàn:
để chống lại và đuổi kịp những nước phương Tây đã từng áp bức thống
trị mình, các dân tộc chậm phát triển không có con đường nào khác là
phải đem ra thực hiện ngay hình mẫu phát triển của phương Tây và
thực hiện trong một thời gian nhanh nhất. Và đó chính là ý nghĩa của
chủ nghĩa cộng sản dân tộc kiểu Stalinít: trong nước thì sử dụng
biện pháp chuyên chính để rút ngắn thời gian tích luỹ ban đầu, ngoài
nước thì tạo ra một vành đai những nước chư hầu vừa làm hàng rào che
chắn về quân sự vừa trao đổi có lợi về kinh tế. Tính chất hỗn dung
của một đường lối như vậy là rất rõ rệt: muốn tiến lên hiện đại
(công nghiệp hoá ), nó đã phải dùng đến những biện pháp tiền hiện
đại (chuyên chính toàn trị kiểu châu Á): đó là một mô hình hiện đại
hoá nửa vời, vì đã tách rời công nghiệp hoá khỏi
dân chủ hoá. Và cũng chính vì vậy mà người ta mới hiểu tại sao
vấn đề ý thức hệ lại tỏ ra vô cùng quan trọng đối với chế độ cộng
sản: nó dùng cái viễn cảnh về một xã hội tương lai phát triển hoà
hợp, cực kỳ tốt đẹp (không khác gì cõi đời của Đế Nghiêu Đế Thuấn)
để biện minh cho những biện pháp khắc nghiệt, tàn khốc. Nó đem các
lý lẽ về cái gọi là “sứ mệnh lịch sử” để thủ tiêu sự tồn tại của xã
hội công dân, không cho phép bất cứ ai kiểm soát những hoạt động của
nó. Nó cũng hay khoe khoang về nhân về nghĩa để làm yên lòng người
nhưng trong thực tế hành động thì lại cho phép thẳng tay dùng những
thủ đoạn bá đạo để quản lý xã hội, triệt tiêu từ trứng nước những xu
hướng nghĩ khác, làm khác với những giáo điều chính thống (bài học
của Trung hoa: “dương Nho, âm Pháp”). Việc đẩy niềm tự hào dân
tộc lên chỗ tột đỉnh của nó bao giờ cũng đi đôi với việc đả kích
kịch liệt những xu hướng tư tưởng khác lạ để giành quyền đại diện
duy nhất cho dân tộc. Lý luận về “chủ nghĩa yêu nước” đó tất yếu
cũng sẽ dẫn đến lý luận về sự “độc quyền yêu nước”[18]cũng
như “độc quyền chân lý”. Nếu so sánh tất cả những cách lập
luận về ý thức hệ của những người cộng sản Việt Nam ngày nay với cái
cung cách ăn nói viết lách của những nhà cầm quyền phong kiến thời
xưa, chúng ta sẽ thấy sự giống nhau nhiều lúc thật y như khuôn đúc:
ngoài ta tất cả đều là bọn di dương, bạch quỷ, tà đạo. Thật ra
thì sự trùng hợp đó cũng là tất yếu: vừa bước chân ra khỏi cái xã
hội cổ truyền bị thực dân thống trị, Việt Nam chưa tạo được cho mình
những điều kiện đầy đủ và cần thiết để bước ngay vào thế giới hiện
đại. Sự sốt ruột của chủ nghĩa dân tộc cộng sản không thể thúc đẩy
những yếu tố ấy phát triển nhanh hơn. Trái lại, với một thứ ý thức
hệ cực đoan mượn được từ chủ nghĩa Stalin, cho phép thực hiện những
biện pháp của Lênin, dùng “dã man” để chống lại “dã man”, đất nước
sẽ không đi vào con đường nào ngoài sự tăng lên nhiều lần của tình
trạng “dã man” sẵn có. Bên ngoài cái vỏ hiện đại mang màu sắc “khoa
học”, chủ nghĩa dân tộc cộng sản đã chứa trong nó cái hạt nhân cứng
của chủ nghĩa dân tộc phong kiến.
Có cần một chủ nghĩa dân tộc mới?
Cùng là những thực tại lịch sử nhưng dân tộc hình
thành lâu dài và ổn định hơn chủ nghĩa dân tộc. Cũng xuất phát từ
một dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi thời kỳ, tuỳ theo những phát hiện mới
về bản thân thực tại dân tộc, sẽ có những chủ nghĩa dân tộc khác
nhau ra đời. Chủ nghĩa dân tộc vì thế không phải là hiện thực về dân
tộc: nó là các ý thức hệ khác nhau về dân tộc, vì vậy nó thay đổi
theo thời gian. Chủ nghĩa dân tộc thường ra đời vào những khúc quanh
lớn của cuộc sống dân tộc: khi dân tộc đang hình thành, đang đấu
tranh bảo vệ sự tồn tại của nó, hoặc đang trên đà bành trướng, đặc
biệt trong những lúc có chiến tranh với những thế lực bên ngoài. Ít
khi chủ nghĩa dân tộc tồn tại riêng rẽ, nó thường quyện vào những
thứ ý thức hệ về tôn giáo, về chủng tộc, về triết học để tạo thêm
sức mạnh.
1. Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam trong suốt một thiên
niên kỷ vừa qua đã gắn liền với sinh mệnh của dân tộc Việt Nam trên
con đường đi tìm số phận mới cho mình. Lần thứ nhất, qua sự thống
trị của nền văn minh Trung Hoa cao hơn nó, bị xoá sạch hầu hết quá
khứ, nó đã tìm cách thích ứng để tái sinh theo một cách thế tồn tại
mới. Nhưng cũng chính trong số phận mới này, khi hấp thu được những
cái cao hơn bản thân nó, nó vẫn chưa phải hoàn toàn là nó: sự tồn
tại của nó vẫn chỉ được biện minh đơn thuần bằng sự quy định về chủ
quyền không gian. Có lẽ cuộc chiến đấu đó đã làm hao tổn quá nhiều
sinh lực, cho nên những phần còn lại của nó đã trở thành quá tầm
thường, không có gì ngoài những cái vay mượn, khôn ranh vụn vụn vặt,
cuối cùng nhào nặn ra được một thứ triết lý sinh tồn thực dụng, bề
ngoài luôn lên gân sĩ diện nhưng bên trong lại chứa đầy mặc cảm tự
ti. Cũng chính cái não trạng ấy đã cản trở tầng lớp lãnh đạo dân tộc
thời bấy giờ nhìn xa hơn những cái mình đang có, cuối cùng để đất
nước rơi vào sự thống trị của thực dân phương Tây. Cũng như
lần trước, lần này dân tộc Việt Nam đã giáp mặt với một thế lực mạnh
hơn mình và văn minh hơn mình rất nhiều, và cũng như lần trước nó đã
phải chuyển mình để thích ứng. Cuộc thách thức thật gay go, nó đòi
hỏi một sự chiêm nghiệm sau sắc về mình về người, và điều đó đã dẫn
đến chỗ đoạn tuyệt được cái huyền thoại đồng chủng với Trung Hoa, và
do đó cũng dám quyết liệt dứt bỏ sự nô lệ về tư tưởng với “người anh
em” cũ ở phương Bắc.
Chủ nghĩa dân tộc hiện đại ra đời, tiếp nối chủ nghĩa
dân tộc phong kiến, thúc đẩy đất nước đi về phía trước. Tất cả đã
biểu hiện được trong chủ nghĩa dân tộc của những người cộng sản với
một chân trời hứa hẹn. Nhưng thật lạ lùng: những gì mà những người
cộng sản làm được cho dân tộc, tính đi tính lại, lại không gì khác
hơn là chỉ tiếp nối những vương triều phong kiến trong việc giữ gìn
sự nguyên vẹn của “xã tắc, sơn hà”. Mưu lược đánh giặc, ý chí
chống xâm lược mang tính truyền thống đã đưa Việt Nam lên đỉnh cao
của lịch sử của mình trong thế kỷ 20: rất nhiều thế lực xâm luợc
hùng mạnh thời hiện đại đã thảm bại ở đây. Nhưng chỉ có thế mà thôi.
Cái ý thức hệ gọi là “Mác-Lênin”mà những nhà lý luận cộng sản coi là
cái “tất yếu” để đưa đất nước vào con đường hiện đại hóa đích thực
thật sự chỉ là một trong những sản phẩm cực đoan và ảo tưởng nhất
của phương Tây, và dưới cái dạng du nhập của nó vào Việt Nam, nó
không khác gì với cái ý thức hệ cầm quyền mà những nhà Nho trước đây
đã mượn của Trung Hoa làm cái của mình: đó chỉ là một cái thay thế
về danh nghĩa. Cũng gồng lên tự xưng là “nhất” một học thuyết ngoại
lai mới du nhập được, coi đó là khuôn vàng thước ngọc, để rồi khư
khư ôm giữ, không đưa dân tộc đến đau ngoài lạc hậu, trì trệ.
Cái gọi là chủ nghĩa yêu nước mà những nhà lý luận cộng sản
coi là toa thuốc gia truyền của mình thật sự vẫn chỉ là cái lý tưởng
“các đế nhất phương” của các nhà Nho. Còn cái gọi là tư tưởng yêu
nước mà người ta đề nghị nghiên cứu sau thêm rút cuộc lại không
có gì khác hơn cái gọi là “tư tưởng đánh giặc”[19],
lúc nào cũng đem “xương máu” ra khoe ! Tất cả vẫn chỉ loay hoay
trong cái triết lý tồn sinh
[20]trong
một không gian cục bộ, bó hẹp trong cái bọc “đồng bào”, quây quần
bên cái đình, cái ao của thôn xóm làng xã, hoàn toàn xa lạ với những
viễn cảnh của một nhân loại “tự thực hiện mình” trong hợp nhất.
Những giá trị phổ biến nằm trong chủ nghĩa Mác – cũng như nhiều giá
trị phổ biến khác – không hề là chân trời vươn tới cho với một
cung cách tư duy như vậy. Những bàn tán ồn ào và dai dẳng của cái
gọi là “chủ nghĩa Mác” ở Việt Nam cho đến bây giờ vẫn chỉ là những
thao tác chữ nghĩa, cố gắng lên gân và khoe khoang trong nội bộ với
nhau thôi.
2. Chủ nghĩa dân tộc cộng sản không thể giữ nguyên
vẹn mãi nội dung của nó. Ra đời trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang
chìm đắm trong nô lệ, nội bộ khủng hoảng vì mất chỗ dựa về ý thức hệ
từ người đồng chủng phương Bắc, chủ nghĩa dân tộc đó đã là cái thay
thế có tính chất nối tiếp ý thức hệ phong kiến một cách khá hợp lý
[21].
Lặn ngụp liên tục trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, lấy
nông thôn và rừng núi làm địa bàn chủ yếu, chủ nghĩa dân tộc đó chỉ
phát huy được hết sức huyễn hoặc của nó trong những tình thế ấy với
những quan niệm cố hữu về xây dựng lại “giang sơn” của nó: trong
hình dung của Đảng và những người đi theo Đảng bấy giờ, viễn cảnh
một “ngày mai ca hát” khi đất nước độc lập hoà bình và “tiến lên chủ
nghĩa xã hội” không có gì khác hơn là sự quây quần của một quần thể
người đứng đầu là “Bác Hồ” cầm kẹo chia cho các con cháu, trên một
đất nước mà ai cũng là thành viên của một “bọc trăm trứng” đối với
xử với nhau thân thiết như trong một đại gia đình! Nhưng một nhà
nước-dân tộc hiện đại không bao giờ có thể là như thế: tham vọng xây
dựng một chế độ dân chủ “gấp triệu lần” không thể nào ra đời từ cái
mô hình nhà nước phỏng theo chế độ thị tộc, ở đó ông chủ tịch nước
tự coi mình là cha già dân tộc được. Một guồng máy quan liêu
ra đời “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” nặng nề không khác gì thời phong
kiến chỉ là sự phát triển lôgích của cái não trạng cầm quyền ấy.
3. Chính cái sức phản ứng của thực tế đã buộc Đảng
cộng sản phải tiến hành đường lối “đổi mới”. Cái truyền thống tư duy
của Đảng, vừa tự tôn, tự phụ vừa co ro, thiển cận – chẳng khác gì
cái tư duy thời nhà Nguyễn – không thể là môi trường tinh thần tạo
ra được những thay đổi chủ động và tích cực. Những gì buộc Đảng phải
nhúc nhích vì vậy vẫn chỉ là những ứng phó để “tồn tại”, là sự chạy
theo những áp lực thực tế và bên ngoài để duy trì quyền lực, lúc
buông lúc thả tuỳ tiện, xuất phát từ những toan tính cơ hội. Ban
đầu còn dục dặc cho phép “xé rào” thực hiện “ba lợi ích”, nhưng cuối
cùng, qua nhiều lần đóng mở, nhân nhượng rồi xiết lại, xiết lại rồi
nhân nhượng, đã đưa đất nước vào hoảng loạn: một nền kinh tế tư bản
rừng rú đã ra đời ngay trong lòng một nhà nước mệnh danh là “xã hội
chủ nghĩa”. Những quan niệm cổ lỗ và giáo điều về lãnh đạo cộng với
các thủ đoạn củng cố quyền thế để “hối mại quyền thế” ở đây đã trở
thành không những lực cản của quá trình hiện đại hoá đích thực của
đất nước mà còn là chất xúc tác để đẩy đời sống xã hội vào sự suy
thoái toàn diện.
Giống như Nho giáo trước đây, chủ nghĩa dân tộc cộng
sản ngày nay đang đứng trước những thử thách cực kỳ gay gắt, từ bên
trong lẫn bên ngoài. Không phải chỉ từ những áp lực của những phê
phán trực diện về lý luận và văn hoá mà quan trọng hơn hết còn từ
ngay cái thực tế xã hội do sự “đổi mới” của Đảng tạo ra ngoài ý muốn
của mình: một xã hội công dân độc lập với nhà nước đang được phục
hồi cùng với những quan niệm hoàn toàn mới mẻ về xây dựng đất nước,
về phát triển, về quyền lực, đi kèm theo hỗ trợ cho nó. Để đối phó
với những áp lực âm thầm nhưng cũng rất nguy hiểm ấy, guồng
[22]máy
ý thức hệ của Đảng không biết làm gì khác hơn là mài dũa kỹ thuật
trấn áp đồng thời tăng cường các thủ đoạn huyễn hoặc về tư tưởng.
Trong khi chủ nghĩa xã hội được đưa lên thượng từng những cái gọi là
“lý tưởng” hoặc “định hướng” thì cái gọi là “chủ nghĩa yêu nước”
cùng với những cái gọi là “bản sắc dân tộc” lại đang được tài trợ,
khuyến khích phát triển khá ồn ào. Những nhân tố gọi là phản kháng,
bất mãn, phê phán trong văn hoá truyền thống trước đây, trong thời
chống đế quốc phong kiến được khai triển đến nay đã bị làm giảm nhẹ
đi để nhường cho sự đề cao những giá trị gọi là “châu Á” vừa học
được của những người bạn mới trong khối ASEAN: phục tùng trật tự xã
hội, tôn trọng quyền lực nhà nước, coi quyền lợi tập thể cao hơn cá
nhân, chấp nhận những trật tự hiện có một cách ngoan ngoãn. Ý thức
hệ dân tộc cộng sản ngày càng bộc lộ rõ tính chất phong kiến và lạc
hậu của nó. Tất yếu nó sẽ gặp phải những áp lực ngày càng mạnh mẽ
buộc nó phải đổi thay nhiều hơn trong tương lai khi xã hội Việt Nam
càng phải dấn sau vào quá trình hiện đại hoá.
4. Chẳng có gì chắc chắn để cho rằng chủ nghĩa dân
tộc dưới mọi hình thức khác nhau của nó sẽ bị đẩy sang bên lề những
con đường dẫn các dân tộc vào thiên niên kỷ tới. Cho đến nay, lịch
sử tư tưởng chưa có bằng cớ nào cho biết rằng thế giới hiện đại
không còn cần đến những huyền thoại. Nhưng có huyền thoại này và
huyền thoại khác. Có huyền thoại của một tuổi. Của một thời. Liệu
trước sự mất giá của các huyền thoại cũ, những nhà lý luận cộng sản
Việt Nam có khả năng tạo ra được những huyền thoại nào khác hay hơn
để biện minh cho cái gọi là “sứ mệnh lịch sử “ của họ khi bước sang
thế kỷ 21 hay không? Liệu cái ý thức hệ mới đó có khả năng huyễn
hoặc được những người Việt Nam của thế kỷ 21 hay không ? Mọi thứ vẫn
còn là những câu hỏi. Nhưng để chấm dứt, thiết tưởng cần nói thêm
một điều để tránh bất công: vào cuối thế kỷ này đã không ít người
Việt Nam muốn đi đến tương lai càng ít huyền thoại càng tốt – đối
với những người này những chuyện huyễn hoặc cũng có cái thú vị của
chúng nhưng lại chẳng hay ho gì khi được sử dụng để tạo
tính chính đáng cho một nhà nước-dân tộc thời hiện đại.
26-10-1998
[1]
Mối quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa dân tộc đã được đề cập
khá rành mạch trrong cuốn sách của
Boyd C. Shafer:
Nationalism, Harcourt Brace World Inc. New York,
1955; bản Pháp văn: Le Nationalisme, Mythe et Réalité,
Payot, Paris, 1964
[2]
Nationalism, Microsoft Encarta 98 Encyclopedia
[3]
NhiỀu tác giẢ:
Lịch sử Nhật bản, Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997,
tr. 44-45
[4]
Xem NhiỀu tác giẢ:
Thời đại Hùng Vương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976,
tr. 155
[5]
Có lập luận cho rằng dân tộc Việt Nam chỉ hình thành từ ngày
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, bắt đầu từ 1930.
[6]
Cuốn sách ghi lại truyền thuyết này là cuốn Lĩnh Nam
Chích Quái của
TrẦn ThẾ Pháp, biên soạn vào khoảng trước 1428. Không
biết bản chính còn giữ được hay không, nhưng trong những bản
chép tay được đem in ra chữ quốc ngữ ở Việt nam, từ bấy lâu
nay, đã có rất nhiều sai biệt về mối quan hệ giữa Lạc Long
Quân và Âu Cơ. Nếu có sách cho rằng” Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
tức là lấy con gái của anh con nhà bác (Đế Lai)” (NguyỄn
KhẮc ThuẦn: Việt sử giai thoại, Tập I, Giáo
dục, tr.9) thì lại có sách chép Lạc Long Quân đã bắt cóc Âu
Cơ, vợ của Đế Lai, mà Đế Lai lại là anh ruột của mình (Lĩnh
Nam Chích quái, Khai Trí, Sài gòn, 1960,
Lê HỮu MỤc
dịch)
[7]
Đại Việt sử ký toàn thư của
Ngô Sĩ Liên
viết vào thời Nhà Lê (1479) là cuốn sử chính thức đem truyền
thuyết vua Hùng ghi vào thời kỳ mở đầu cho lịch sử Việt Nam.
[8]
Đào Duy Anh:
Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1994,
tr. 18-19
[9]
“Bắc quốc tự cho mình là thiên triều, khinh thị nước ta là
Nam quỷ. Ta thì cũng tự yên phận là quỷ và cho Bắc quốc là
người. May được họ để mắt đoái nhìn thì đã thoả mãn, nhảy
nhót, ngoài ra không biết còn có thế giới nào nữa” (Phan
BỘi Châu: Việt Nam quốc sử khảo, Khoa học xã
hội, Hà nội, 1982, tr. 278)
[10]
TrẦn Đình HưỢu:
Đến hiện đại từ truyền thống, Văn hoá, Hà nội, 1996,
tr. 121-122
[11]
Vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam chỉ mới được nghiên cứu
một cách khoa học từ thời thuộc Pháp đến giờ, với rất nhiều
giả thuyết khác nhau, nay ở Việt Nam có mấy thuyết đáng chú
ý như sau; 1) Gốc gác người Việt Nam là Mélanésien và
Indonésien, có thể là từ các đảo ở châu Úc theo gió mùa di
cư sang Đông Dương, 2) Đó là những người Indonésien (còn gọi
là proto Malais) – một loại hình Mongoloide phương Nam vừa
gồm có đặc trưng của đại chủng Mongoloid vừa có những đặc
trưng của đại chủng Australoide-Negroide – từ phương Bắc
thiên di xuống vùng Bắc bộ ngày nay, 3) Cũng là Indonésien
nhưng tồn tại lâu dài tại bản địa và qua giao tiếp với những
chủng tộc khác, đã giảm dần yếu tố Australoide-Negroide và
phát triển yếu tố Mongoloide, đến nay đã hình thành loại
hình nhân chủng Nam Á. Những thuyết này đều cho các loại
hình kể trên là chủ nhân của nền văn hoá Đông sơn thời Vua
Hùng và khác hẳn với loại hình Mongoloide là loại hình nguồn
gốc của người Trung Hoa. (Xem
Hà Văn TẤn:
Theo dấu các văn hoá cổ, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998,
tr. 335-401).Tất nhiên không thể lấy những giả thuyết trên
để “tranh luận” với những sử gia phong kiến trước đây. Ở họ,
vấn đề nguồn gốc dân tộc hoàn toàn chỉ là vấn đề ý thức hệ:
từ huyền thuyết suy ra cái riêng của mình (vua Hùng) nhưng
để chống lại sự khinh miệt của Tàu thì phải cố nâng mình lên
hàng đồng chủng với Tàu bằng cách cho mình nước Tàu phương
Nam – Tàu lai. Thật sự, theo nhiều nhà nghiên cứu thì
thứ Tàu phương Nam này chính là Bách Việt, mà Bách Việt
trước khi bị Hán hóa lại chính là Indonesien (cổ Mã Lai)
khác hẳn về nguồn gốc với Tàu. Bị lệ thuộc nhưng tránh được
nạn đồng hoá, Việt Nam nếu có lai Tàu thì cũng không đáng kể
(Xem Bình Nguyên LỘc: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam,
Bách Bộc, Sàigòn, 1970).
[12]
NhiỀu tác giẢ:
Lịch sử Việt Nam, tập I, Khoa học xã hội, Hà Nội,
1976, tr. 31
[13]
Kim ĐỊnh:
Việt lý tố nguyên, An Tiêm, Sàigòn, 1970
[14]
TrẦn NgỌc Thêm:
Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1996
[15]
“Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông
minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi
thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật
hơn trí khoa học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực
học. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt
cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán
thường có vẻ thiết thực lắm. Sức làm việc khó nhọc, nhứt là
người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp. Cảm giác hơi chậm
chạp song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục. Tính
khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay
khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi
bời cờ bạc. Thường thì nhút nhát và chuộng hoà bình, song
ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa. Não sáng tác thì
ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hoá thì rất tài.
Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh
vặt, hay bài bác chế nhạo.”(Đào
Duy Anh,
Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, Sàigòn, 1951, tr.
23)
[16]
Xin được nhắc lại ý kiến tôi đã trình bày ở một nơi khác:
Trong cuốn sách Về những mẩu chuyện hoạt động của Hồ Chủ
Tịch, Hồ Chí Minh (dưới bút danh là
TrẦn Dân Tiên)
đã cho biết rằng sở dĩ ông chấp nhận theo chủ nghĩa Lênin
chỉ vì ông thấy Lênin đã ủng hộ phong trào giải phóng dân
tộc, ngoài ra tất cả những thứ cái còn lại thuộc chiến lược,
chiến thuật, chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp, Đệ nhị,
Đệ tam… ông không hiểu gì cả.
[17]
“… chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải chỉ là một tình
cảm hời hợt, mà là cả một hệ thống tư tưởng rất phong phú,
cho đến nay hãy còn nhiều điểm nội dung đang chờ sức khám
phá của các nhà sử học và các nhà triết học” (TrẦn Văn Giàu: Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước, Nhà xuất bản văn nghệ Tp Hồ Chí
Minh, 1983, tr. 14).
[18]
“Chủ nghĩa Mác-Lênin rèn luyện người yêu nước thành người
cách mạng sáng suốt, triệt để nhất…” (TrẦn
Văn Giàu: Như trên, tr. 303). “…từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, trong khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ mấy
chục năm, chủ nghĩa Mác-Lênin sở dĩ đi vào nhân dân một cách
mau lẹ, chinh phục tâm trí của đa số, trước tiên vì học
thuyết Mác-Lênin được đồng bào ta đánh giá là ánh sáng, là
sức mạnh cứu nước không gì bằng. Trong khi đó thì Công giáo
có 3,4 thế kỷ tuyên truyền lại được các đế quốc và nguỵ
quyền ủng hộ, nhưng không làm sao phát triển nhanh được, ấy
là vì, mãi cho đến gần đây, tôn giáo này bị nhân dân ta xem
là công cụ cướp nước, công cụ thống trị thực dân” (TrẦn
Văn Giàu: Triết học và tư tưởng, Nxb Thành phó
Hồ Chí Minh, 1988, tr. 184)
[19]
NguyỄn Tài Thư
và nhiều tác giả: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập I,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 238
[20]
Một tác giả người Mỹ đã dùng mấy chữ “những chuyên gia về
tồn tại” để nói về sức sống kỳ diệu của người Việt Nam. (Xem
Keith Weller Taylor:
The birth of VietNam, University of California Press,
Berkeley, 1983, “Introduction”). Sự khen ngợi chứa đựng quá
nhiều ý nghĩa!
[21]
Nguyễn Khắc Viện, năm 1984, bổ sung cho bài tiểu luận
“Confucianisme et Marxisme au Vietnam” đăng trên La
Pensée số 10-1962 ở Paris, đã giữ nguyên luận điểm: Nho
giáo chính là miếng đất thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa
Mác vào Việt Nam, và viết:
“cũng
như Nho giáo, lúc Đảng đã nắm chính quyền, nguy cơ quan liêu
hoá của chủ nghĩa Mác luôn luôn đe doạ; và một chủ nghĩa Mác
quan liêu hoá về nhiều mặt rất giống với Nho giáo”. Ông cũng
viết thêm:
“Phê
phán Nho giáo cũng giúp cho phê phán chủ nghĩa quan liêu
ngày nay”, vì ông vẫn tin rằng chủ nghĩa Mác đã mang trong
bản thân nó những yếu tố rất mới: “khoa học, dân chủ, tinh
thần quốc tế vô sản” (NguyỄn
KhẮc ViỆn: Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ, 1998, tr.
72-73). Nếu như người ta chứng minh được rằng bản thân chủ
nghĩa Mác chẳng có gì gọi được là “khoa học”, và hơn nữa chủ
nghĩa Mác ở Việt Nam chỉ là một thứ chủ nghĩa Stalin chẳng
có gì là “quốc tế vô sản” theo tinh thần của Mác, thì nhận
xét của ông Viện về “nguy cơ quan liêu hoá của chủ nghĩa
Mác” ở Việt Nam hiện nay phải được chuyển đổi thành “nguy
cơ quan liêu hoá của chủ nghĩa Nho giáo-cộng sản” ở Việt
Nam hiện nay mới đúng! Nhưng điều này lại chẳng có gì là
chính xác cả: Nho giáo (với tư cách là một ý thức hệ cầm
quyền) ra đời là để tạo ra chế độ quan liêu phong kiến,
chẳng khác gì chủ nghĩa Stalin chính là chế độ quan liêu
toàn trị. Chỉ phê phán Nho giáo là không đủ: những nhà lý
luận cộng sản Việt Nam theo đường lối chính thống ít khi nào
nhận mình là tiếp nối Nho giáo. Cũng như chỉ phê phán chủ
nghĩa Mác là không đủ: chủ nghĩa cộng sản Việt Nam chỉ là
chủ nghĩa Stalin mạo danh Mác.
27-5-08