Chử Đồng Tử là ai? Tìm hiểu sự tích lễ hội Chử Đồng Tử

Cứ đến tháng 2 âm lịch hằng năm, huyện Khoái Châu (Hưng Yên) lại nô nức khách thập phương. Họ cùng để tham gia lễ hội lớn của cả nước theo truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Vậy ông là ai và sự tích lễ hội Chử Đồng Tử có nguồn gốc từ đâu? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây

1. Chử Đồng Tử là ai?

Theo dân gian, ông là người làng Chử Xá (nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Cha mẹ của Chử Đồng Tử ông Chử Cù Vân và bà Bùi Thị Gia.

Vợ mất sớm, ông Chử Cù Vân một mình gà trống nuôi con. Không may căn nhà gặp hỏa hoạn, 2 cha con phải chia nhau chiếc khố để dùng khi ra ngoài. Chẳng bao lâu Chử Cù Vân bị bệnh nặng, trước khi qua đời, ông dặn con trai : “Cha chết đi, con giữ cái khố lại mà che thân, cho thiên hạ khỏi chê cười”. Nỡ lòng nào phận làm con mà để cha chết trần, Đồng Tử chôn chiếc khố cùng cha. Chàng sau đó phải kiếm sống hàng ngày bằng nghề mò cua, bắt ốc dù không mảnh vải che thân.

Chử Đồng Tử là ai?

2. Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử

2.1 Lễ kết nhân duyên với công chúa Tiên Dung

Thuở ấy, Tiên Dung là con gái giai nhân tuyệt sắc của vua Hùng thứ 18. Vào ngày nọ, công chúa Tiên Dung vãn cảnh trên con thuyền dọc sông Hồng. Chử Đồng Tử bấy giờ đang bắt cá dưới sông bèn vội vã túm lấy mớ lau để che thân. Ngắm cảnh giữa chừng, Tiên Dung cho người dựng lều tắm quanh khóm lau bên bờ, chẳng ngờ lại là nơi Đồng Tử đang ẩn mình.

Chẳng mấy chốc mà nàng công chúa phát hiện ra một chàng trai trẻ trần truồng ở gần đó. Trước người con gái có thân thể như ngọc như ngà, Chử Đồng Tử sợ hãi định chạy trốn. Ngẫm là chuyện trời định, Tiên Dung bình tĩnh nói: “Ta và chàng tình cờ gặp nhau ở đây, đều mình trần như thế này, âu cũng là nhân duyên do trời sắp đặt”. Tiên Dung truyền chuẩn bị lễ phục cho Đồng Tử và 2 người tổ chức buổi nên duyên vợ chồng.

Chử Đồng Tử trốn đoàn thuyền công chúa Tiên Dung dưới khóm lau

2.2 Truyền thuyết “Công chúa nước Phật”

Vua Hùng hay tin con gái bén duyên với kẻ tiểu tốt liền nổi cơn thịnh nộ quyết từ con. Tiên Dung sợ cha không dám trở về, đành chung sống một cuộc đời bình dị cùng Đồng Tử. Họ mưu sinh ngày qua ngày bằng nghề đánh bắt thủy sản và thương nghiệp bên bờ sông. Nơi ấy dần trở nên tấp nập tàu bè thương lái ra vào trao đổi hàng hóa. Cảm phục trước tình cảm vợ chồng, Tiên Ông đã ban phước thánh cho chàng trai họ Chử. Họ cùng chu du khắp vùng Khoái Châu cùng chiếc gậy phép chữa lành bách bệnh cho nhân dân.

Trên đường cứu nhân độ thế, Tiên Dung kết nghĩa chị em với nàng Tây Sa từ Tây cung. Ngày nhà vua mắc trọng bệnh, Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã bí mật truyền nàng Tây Sa về quê chữa trị cho vua cha. Thấm thoắt, nhà vua khỏi bệnh nhờ phước tiên liền phong cho nàng Tây Sa là “Công chúa của nước Phật”.

2.3 Truyền thuyết đầm Nhất Dạ và đền thờ Chử Đồng Tử

Vua Hùng được kẻ nịnh thần bẩm tấu về âm mưu dựng nên thành quách, bờ cõi riêng của vợ chồng Tiên Dung – Chử Đồng Tử. Ngờ con làm phản, vua Hùng tức tốc phái trăm quân đến dẹp loạn. Vợ chồng Đồng Tử chỉ biết hạ lệnh cha và chịu tội. Nửa đêm, một cơn gió lạ nhấc tung thành quách của cặp vợ chồng lên không trung, để lại một đầm nước trống. Đầm đấy nay được gọi là đầm Nhất Dạ (hình thành chỉ sau một đêm). Xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, Hà Nội là nơi ngày xưa Đồng Tử vùi mình ẩn nấp. Tương truyền rằng vua Hùng Duệ Vương đến gặp con gái sau khi cặp vợ chồng hóa về trời. Ăn năn tột cùng, vua ban tước hiệu Chử công cho Chử Đồng Tử và lập đền thờ.

Lễ hội tưởng nhớ "Tam vị đức Thánh"

3. Truyền thuyết thờ cúng Đức Thánh tổ

Cảm mến trước mối tình bất tử, đền thờ Đức thánh được người dân thờ phụng. Nổi tiếng nhất là đền Đa Hoà thuộc huyện Khoái Châu – theo sự tích lễ hội Chử Đồng Tử. Ngôi đền này năm 1894 được Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở hưng công xây dựng lại. Khu đền được gia trí trên khu đất cao và rộng 18.720m². Trong đó có 18 nóc nhà tượng trưng cho 18 đời vua Hùng. Trong đền hiện vẫn còn lưu giữ nhiều thánh vật như tượng Đồng Tử và nhị vị phu nhân.

Bên cạnh có còn có đền Hóa là đền thờ “Chính” thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Các di vật như 3 pho tượng cổ bằng vàng-đồng đen, lọ cổ 100 chữ thọ đã được dân cất dấu và sau này chuyển tạm về đền thờ “Tránh” Đa Hòa. Sau này nhân dân Khoái Châu đã trùng tu ngôi đền này.

Đền thờ Đồng Tử ở Khoái Châu

4. Phật tử đầu tiên của Việt Nam

Người ta cho rằng, người Ấn đã xuất hiện đầu tiên trong các phiên buôn hàng tại khu chợ ngày xưa. Mà Ấn Độ là nơi khởi nguồn của Phật giáo. Khi đi buôn trên biển, ông đã lần đầu gặp vị tăng sĩ Ấn Độ có tên Phật Quang trên một hòn đảo.

Theo dữ kiện trên, Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau là do duyên số định đoạt.

Nếu như Đồng Tử không vì chữ hiếu mà chôn khố theo cha. Thì liệu anh có khố mặc khi làm việc? Nếu vậy, anh cũng không việc gì phải vùi mình vào khóm lau để tránh Tiên Dung. Nếu không vì tính chu du và phóng khoáng của mình, liệu Tiên Dung có giong buồm đi đó đây và chạm mặt Đồng Tử trong một viễn cảnh khó tin nhất không?

Nếu Tiên Dung không thành hôn với Đồng Tử. Liệu nàng có phải sống mưu sinh xa nhà tránh vua cha? Nếu không khởi nghiệp buôn bán và đi đó đây, liệu Đồng Tử có bao giờ được gặp vị tăng sĩ người Ấn trên đảo nọ? Nhân – quả, quả – nhân duyên, đây chính là sự khởi kết trùng trùng.

Như vậy, từ cuộc gặp gỡ đầy duyên phận với Tiên Dung và sau là nhà sư Ấn Độ Phật Quang, Chử Đồng Tử đã trở thành Phật tử Việt Nam.

Đồng Tử rất có thể là vị phật tử đầu tiên ở Việt Nam

 

4.3/5 – (65 bình chọn)