Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước – Luật sư Online

Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước?

Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước?Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước?

1. Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là gì?

Nguyên tắc được hiểu là những điều ca bản nhất thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm (Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học – xã hội, Trung tâm từ điển học, H. 1994, tr. 672). Điều đó có nghĩa là bất kỳ một hoạt động có ích nào của con người, của các tổ chức do con người xây dựng nên đều phải tiến hành dựa trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành, tính tổ chức thực tiễn là chủ yếu, nên nguyên tắc chính là tư tưởng chỉ đạo, làm nền tảng cho tổ chức, hoạt động của cơ quan hành chính giúp cho chủ thể này thực hiện hiệu quả chức năng của mình, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.

Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có những hình thức biểu hiện nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước (Hiến pháp, luật, văn bản dưới luật) do đó nó mang tính pháp lý, là cơ sở để các chủ thể tuân thủ khi tiến hành các hoạt động quản lý hành chính. Nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp là cơ sở để xây dựng hệ thống nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước. Các nguyên tắc quản lý hành chính luôn mang tính khách quan vì nó được xây dựng, được đúc rút ra từ các quy luật của đời sống xã hội và thực tiễn quản lý. Vì vậy, các nguyên tắc quản lý hành chính chịu sự tác động, chi phối của các quy luật, nên nó vừa mang tính ổn định nhưng sự ổn định chỉ mang tính tương đối. Vì, quy luật luôn vận động và phát triển dẫn đến, làm cho các nguyên tắc quản lý hành chính cũng thay đối theo. Đe phản ánh tương đối đầy đủ các quy luật của đời sống xã hội và sự biến đổi đó, nguyên tắc quản lý ngày càng được xây dựng với số lượng lớn và nội dung phong phú, tạo thành một hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính.

Nguyên tắc quản lý hành chính được xây dựng bởi các nhà làm luật nên không tránh khỏi sự nhận thức chủ quan, duy ý chí. Do vậy, phải khắc phục yếu tố này trong quá trình xây dựng các nguyên tắc quản lý. Những nội dung không phù hợp được quy định trong pháp luật, phải được phát hiện kịp thời để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, làm cơ sở cho hoạt động quản lý hành chính hiệu quả, thúc đẩy xã hội phát triển.

Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước được xây dựng thành một hệ thống có mối liên hệ hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất. Tính thống nhất của những nguyên tắc trong hệ thống được quyết định bởi bản chất giai cấp của Nhà nước được thể hiện trong các nguyên tắc và cùng đề cập tổ chức, hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

2. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước

Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung rất phong phú, có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành một hệ thống. Có những nguyên tắc chung (chính trị – xã hội) thể hiện đậm nét quan điểm chính trị, bản chất giai cấp của nhà nước làm co sở cho việc tổ chức, hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó còn có những nguyên tắc riêng (nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật) phản ánh đặc thù của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Những nguyên tắc riêng này là cơ sở cho hoạt động quản lý hành chính cụ thể. Nhờ đó mà hoạt động quản lý hành chính được phân biệt với các hình thức thực hiện quyền lực chính trị khác như lập pháp, tư pháp. Các nguyên tắc quản lý hành chính được chia thành hai nhóm: Các nguyên tắc chính trị – xã hội và các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật.

2.1. Các nguyên tắc chính trị – xã hội

a) Nguyên tắc Đảng lãnh đạo

Đây là nguyên tắc Hiến định được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp cồng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.

Lịch sử phát sinh và phát triển nhà nước Việt Nam kiểu mới gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này đã được khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc 60 năm qua. Đảng lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Những thành tựu to lớn mà nhân dân ta giành được trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc đổi mới hiện nay là một minh chứng về tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo là nguyên tắc cơ bản nhất. Vai trò lãnh đạo của Đảng được nhân dân thừa nhận.

Đảng lãnh đạo quản lý hành chính nhà nước bằng các nghị quyết của Đảng, trong đó đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Cơ quan nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ, thể chế hóa đường lối chủ trương đó thành pháp luật, làm cơ sở cho tổ chức, hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động thể chế hóa đó đã đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống thông qua hoạt động quản lý hành chính.

Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức cán bộ. Đảng bồi dưỡng, đào tạo những đảng viên có năng lực, phấm chất, trình độ giới thiệu cho các cơ quan nhà nước, ý kiến của các tổ chức Đảng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ trong cơ quan nhà nước. Tuy nhiên việc bầu, bổ nhiệm phải dựa trên căn cứ pháp luật.

Đảng lãnh đạo thông qua hình thức kiểm tra, hình thức này không mang tính quyền lực pháp lý, đây là điểm khác biệt với hoạt động kiểm tra của Nhà nước. Hoạt động này giúp Đảng đánh giá được tính đúng đắn, hiệu quả của các nghị quyết do mình ban hành, trên cơ sở đó có các giải pháp kịp thời giúp cho công tác lãnh đạo của Đảng ngày càng hoàn thiện. Đồng thời hoạt động kiểm tra còn nắm được tình hình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các tổ chức đảng các cấp và đảng viên và nhất là các tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, từ đó có khắc phục những khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực làm cho hoạt động quản lý đi đúng định hướng của Đảng.

b) Nguyên tắc tập trung dân chủ

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước khác”. Nguyên tắc này là nguyên tắc -Cơ bản trong hoạt động tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý hành chính, nguyên tắc này trước hết quy định cơ quan hành chính ở trung ương và cơ quan hành chính cấp trên phải đảm bảo sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.

Đồng thời phải đảm bảo cho cơ quan hành chính cấp dưới, địa phương phát huy khả năng chủ động, sáng tạo của mình trong việc thực hiện quyết định của cấp trên và trung ương vào điều kiện thực tế của địa phương. Nguyên tắc này đảm bảo cho trung ương, cấp trên tập trung quyền lực để chỉ đạo điều hành đối với đối tượng quản lý, tuy nhiên tránh tập trung quan liêu, cửa quyền và chống xu hướng tự do vô chính phủ, cục bộ địa phương trong quản lý hành chính.

Nguyên tắc tập trung dân chủ có biểu hiện rất phong phú. Đó là quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm báo cáo của cơ quan hành chính trước các cơ quan quyền lực cùng cấp. Cơ quan quyền lực (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) có quyền thành lập, giải thế, sát nhập cơ quan hành chính cùng cấp, kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan hành chính.

Cơ quan hành chính chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành. Phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính các cấp một cách hợp lý, trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định. Thực chất đây là sự phân cấp đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi khách quan trong quản lý hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là phải mạnh dạn phân cấp cho các địa phương, các đơn vị cơ sở chủ động thực hiện pháp luật trên địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là tự chủ trong hoạt động kinh tế.

Cơ quan hành chính là một hệ thống phức tạp, gồm nhiều cơ quan. Cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở trung ương, địa phương (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp), cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương (Bộ, cơ quan ngang bộ). Với một cơ cấu tổ chức như vậy, đòi hỏi cơ quan hành chính ở địa phương phải chịu sự chỉ đạo từ cấp trên xuống cấp dưới tạo nên sự phụ thuộc dọc và phụ thuộc ngang vào Hội đồng nhân dân cùng cấp. Sự phụ thuộc dọc giúp cơ quan hành chính cấp trên đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong hệ thống. Phụ thuộc ngang giúp cho địa phương thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao và phát huy thể mạnh của địa phương. Sự phụ thuộc hai chiều kết hợp hài hòa lợi ích của toàn quốc với lợi ích của ngành, địa phương.

c) Nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước

Sự tham gia của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước là một đặc trưng của chế độ dân chủ. Khẳng định vai trò của nhân dân trong quản lý hành chính nhà nước, vì vậy xây dựng một cơ chế để thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ mà Nhà nước phải thực hiện. Nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật và được thể hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau, nhân dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, đơn vị cơ sở.

Nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước với tư cách là cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước là đại biểu của cơ quan quyền lực ở những vị trí đó nhân dân thể hiện ý chí của mình, để giải quyết các công việc liên quan đến phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng của Nhà nước, địa phương.

Nhân dân tham gia gián tiếp vào quản lý hành chính thông qua hoạt động của tổ chức xã hội. Cụ thể nhân dân tham gia thành lập các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Các hình thức tham gia trực tiếp của nhân dân còn được thể hiện trong việc bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước, các đơn vị cơ sở, thực hiện quyền kiến nghị, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước, địa phương. Ở nơi cư trú nhân dân tham gia vào hoạt động tự quản như bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường…

d) Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc

Điều 5 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”. Trên cơ sở đó Nhà nước xây dựng, thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi phải dựa trên nhân tố dân tộc, có như vậy mới tạo nên sức mạnh chung của cả dân tộc trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, phát triển kinh tế xã hội. Đất nước ta là một quốc gia đa dân tộc vì vậy nguyên tắc này làm nền tảng cho sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa các dân tộc. Điều đó có nghĩa là dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc Nhà nước phải đảm bảo để mỗi dân tộc anh em có điều kiện phát triển về kinh tế, văn hóa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc mình. Trong thực tế Nhà nước có các chính sách ưu tiên giúp đỡ về vật chất, tinh thần, bằng cách đó khuyến khích đối với con em các dân tộc thiểu số học tập, nâng cao trình độ học vấn. Đây là lớp nguồn để Nhà nước đào tạo các ngành nghề, bố sung cho đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước ở những nơi bà con dân tộc sinh sống. Với tư cách là cán bộ, công chức đồng bào trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, cũng như các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Bên cạnh đó, Nhà nước còn có các chính sách về đầu tư phát triển kinh tế nhằm phát huy tiềm năng kinh tế, nâng cao dần từng bước đời sống của bà con các dân tộc ít người. Chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức công tác ở những vùng sâu, xa, biên giới hảỉ đảo, địa bàn sinh sống của bà con các dân tộc ngày càng được quan tâm giúp cho cho họ yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.

e) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc này là một nguyên tắc đòi hỏi mọi chủ thể là cá nhân, công dân, tổ chức phải triệt để tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Đặc biệt là cơ quan nhà nước trong đó có cơ quan hành chính. Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Quản lý hành chính nhà nước là một lĩnh vực hết sức phức tạp đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan hành chính thực hiện hoạt động quản lý hành chính chủ quan, tùy tiện. Để thực hiện nguyên tắc này phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu:

– Ban hành các quyết định hành chính là hoạt động cơ bản và chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua các quyết định hành chính cơ quan hành chính giải quyết những công việc khác nhau trong lĩnh vực hành chính. Các quyết định đó phải phù hợp với thẩm quyền, thủ tục ban hành, hình thức do pháp luật quy định.

– Các quyết định hành chính được ban hành phải dựa trên cơ sở luật, nội dung phải phù hợp với luật, quyết định hành chính của cơ quan hành chính cấp dưới phải phù hợp với quyết định của cơ quan hành chính cấp trên, quyết định của địa phương phải phù hợp với quyết định của trung ương và văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực cùng cấp.

– Tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo cho các quy định của pháp luật được các chủ thể tôn trọng và thực sự phát huy được hiệu lực. Thiết lập chế độ thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện vi phạm pháp luật, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể.

2.2. Nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật

a) Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp quản lý theo lãnh thồ

“Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa xã hội có cùng cơ cấu kinh tế – kỹ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được với yêu cầu của Nhà nước và xã hội”.

Quản lý theo ngành còn được hiểu là “Hoạt động sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn kiểm tra… của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương đối với một hoặc một số lĩnh vực có cùng đặc điểm kinh tế – kỹ thuật, chuyên môn…, nhằm đạt được mục tiêu xác định với hiệu quả cao nhất”.

Mặc dù quản lý theo ngành được tiếp cận và hiểu theo những góc độ khác nhau nhưng có thể thấy có một điểm chung đó là hoạt động quản lý theo ngành đáp ứng đòi hỏi khách quan của xã hội và nó xuất hiện khi có sự phân chia các lĩnh vực hoạt động xã hội thành ngành. Bộ, cơ quan ngang bộ là những cơ quan được thành lập để thực hiện hoạt động quản lý, điều hành một ngành hoặc một số ngành. Các cơ quan quản lý hành chính thực hiện hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau như, việc xây dựng chính sách đối với cán bộ, công chức, tổ chức bộ máy quản lý, chiến lược quy hoạch phát triển dài hạn, ngắn hạn đối với kinh tế xã hội, khoa học công nghệ, xây dựng pháp luật, kiểm tra giám sát tổ chức thực hiện pháp luật đối với toàn ngành… Hoạt động quản lý theo ngành ở đây là hoạt động quản lý do các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, ngoại thương, ngân hàng, ngoại giao, an ninh, quốc phòng…

“Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định như tài chính, kế hoạch đầu tư, khoa học, công nghệ, lao động, tổ chức, công vụ. Các lĩnh vực này liên quan đến hoạt động của tất cả các bộ, các cấp quản lý hành chính. Cơ quan quản lý theo chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn, hay một nhóm các lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau”. Sự xuất hiện hoạt động quản lý theo chức năng là do yêu cầu chuyên môn hóa cao của các hoạt động quản lý (thu chi ngân sách, quản lý ngân sách giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật liên quan đến các lĩnh vực quản lý theo chức năng).

Quản lý theo chức năng là quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ theo từng lĩnh vực chuyên môn như tài chính, khoa học, công nghệ, lao động, tổ chức, công vụ.

Quản lý theo lãnh thổ là hoạt động do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện. Đó là hoạt động quản lý hành chính do Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã và các cấp tương đương tiến hành. Để giúp cho Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện hoạt động quản lý chuyên ngành ở địa phương các sở, phòng, ban được thành lập. Hoạt động quản lý ngành, chức năng phải kết hợp với quản lý theo địa phương. Điều đó thể hiện ở những quan hệ sau.

Mỗi đơn vị, tổ chức của một ngành, lĩnh vực đều nằm trên lãnh thổ của địa phương, chịu sự chi phối của địa phương. Các cơ quan chuyên môn của địa phương vừa chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp mình vừa chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn cấp trên (bộ, cơ quan ngang bộ). Trên cơ sở pháp luật bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ban hành quyết định pháp luật (thông tư) có hiệu lực đối với địa phương và kiểm tra việc – thực hiện các văn bản đó. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng có quyền ban hành các quyết định về thực hiện nghĩa vụ quân sự, an ninh trật tự, vệ sinh, môi trường… đối với các ngành đóng trên địa bàn lãnh thổ địa phương. Thông qua mối liên hệ giữa quản lý ngành, lĩnh vực với địa phương cho thấy hoạt động quản lý hành chính luôn phải đảm bảo tính thống nhất và có sự phối kết hợp giữa tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực với chính quyền địa phương. Lợi ích của ngành ở trung ương phải phù hợp với lợi ích của địa phương.

b) Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành

Việc phân chia lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước thành quản lý ngành và quản lý theo chức năng chỉ mang tính tương đối, vì cho dù là hoạt động quản lý nào đi nữa thì cũng vẫn phải có mối liên hệ mật thiết với các ngành liên quan. Điều đó thể hiện trách nhiệm chung của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải giải quyết hàng loạt nhu cầu của xã hội như trật tự an ninh, kinh tế, văn hóa, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, quyền công dân, quyền con người, dịch vụ công ích… Chính vì vậy, không thể có một ngành nào đó tồn tại độc lập mà luôn phải có sự phụ thuộc lẫn nhau. Trong phạm vi quyền hạn của mình cơ quan quản lý ngành, cơ quan quản lý theo chức năng (chuyên môn tổng hợp) đều có quyền ban hành các văn bản pháp luật có hiệu lực đối với các đối tượng quản lý liên quan, kiểm tra, giám sát việc thực hiện văn bản đó. Ngay bản thân các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực khi thực hiện quản lý đối với các tổ chức, đơn vị trực thuộc cũng phải sử dụng các văn bản pháp luật của các ngành khác nhau để tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của ngành, lĩnh vực. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện hoạt động quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của mình cũng chịu sự điều chỉnh của các vãn bản pháp luật của ngành, lĩnh vực. Hoạt động của các chủ thể này không được trái với văn bản pháp luật của cơ quan hành chính cấp trên và cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực.

Các cơ quan quản lý theo ngành, chức năng phối hợp với nhau trong việc ban hành các thông tư liên tịch để điều chỉnh những vấn đề thuộc quyền hạn của mình. Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng, phối hợp quản lý liên ngành đảm bảo sự phát triển của ngành, lĩnh vực đồng’ thời đảm bảo sự liên kết chặt chẽ, thống nhất, hiệu quả trong hoạt động quản lý đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội.

Chia sẻ bài viết: