Bản chất của pháp luật Việt Nam hiện nay – Kiến thức
Bản chất của pháp luật là vấn đề khá phức tạp, trong khoa học pháp lí tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, truyền thống, lịch sử riêng…, vì vậy pháp luật của mỗi nước luôn có những nét đặc thù. Tuy nhiên, cũng như các pháp luật khác, pháp luật Việt Nam hiện nay vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp.
1- Khái niệm bản chất pháp luật
Bản chất của pháp luật là vấn đề khá phức tạp, trong khoa học pháp lí tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Có quan niệm cho rằng bản chất của pháp luật là công lí, đó là lẽ phải phù hợp đạo lí và lợi ích chung của xã hội. Theo quan điểm này, pháp luật thực chất là “cái lí lẽ phổ biến dùng để chi phối các mối quan hệ xã hội chứ không phải là những điều được đặt ra một cách tùy tiện của một cá nhân hay một nhóm người nào”. Trong thời kì chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng, pháp luật đều thể hiện ý chí của thượng đế, nhà nước ban hành pháp luật chỉ là sự nhân danh thượng đế, phụng mệnh thượng đế. Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật thực chất là ý chí của vua chúa. Thực tế cho thấy, có những quốc gia trong đó pháp luật “chỉ là ý chí nhất thời và thất thường của ông vua ”. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng, pháp luật thế hiện ý chí của giai cấp thống trị. Khi nói về pháp luật tư sản, C.Mác viết: “Pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ỷ chỉ mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định ”. Quan niệm phổ biến ở các nước tư bản cho rằng, pháp luật thể hiện ý chí chung của toàn xã hội. Theo Montesquieu, trong một nước dân chủ, pháp luật thể hiện ý chí chung của quốc gia, quyền lập pháp phải thuộc về “tập đoàn dân chúng”, cơ quan lập pháp chỉ thay mặt dân chúng “thể hiện ý chỉ chung của quốc gia”. Rousseau cho rằng, nhà nước ban hành pháp luật nhưng phải có sự phê chuẩn của nhân dân và chỉ khi có sự phê chuẩn nó mới trở thành luật. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã long trọng tuyên bố: “Luật là ý chí của mọi công dân. Mọi công dân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện góp phần xây dựng luật”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp luật luôn gắn bó chặt chẽ với nhà nước, phản ánh bản chất của nhà nước, vì vậy, cũng như nhà nước, xét về bản chất, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp. Là một phạm trù ý thức xã hội, pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật, nội dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế – xã hội quyết định, khi các quan hệ kinh tế – xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của pháp luật. Bên cạnh đó, đường lối chính sách của lực lượng cầm quyền luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với pháp luật. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, vì vậy, đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ thể hoá trong pháp luật thành những quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội. Mặt khác, chính trị còn là sự thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, bản chất của pháp luật do cơ sở kinh tế xã hội và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy định.
Pháp luật của bất kì quốc gia nào cũng luôn thể hiện tính xã hội. Pháp luật là quy tắc ứng xử của con người, là phép đối nhân, xử thế trong quan hệ giữa người với người trong đời sống hàng ngày. Pháp luật xuất hiện là do yêu cầu, đòi hỏi của đời sống cộng đồng, để điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Pháp luật là sự mô hình hoá những nhu cầu khách quan, phổ biến trong xã hội. Xã hội, thông qua nhà nước, ghi nhận những cách xử sự hợp lí, khách quan, phổ biến nghĩa là những cách xử sự được cộng đồng chấp nhận, phù hợp với lợi ích và yêu cầu của cộng đồng. “Pháp luật đó là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có được sự tồn tại, vô ngã, có tính chất lí luận, không phụ thuộc vào cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do nhân dân”. Mỗi quy định trong pháp luật được xem như kết quả của “quá trình chọn lọc tự nhiên” các cách xử sự trong xã hội. Chính vì vậy, trong thực tế người ta có thể tìm thấy những quy định pháp luật giống nhau tồn tại ở những thời đại khác nhau, trong những thế chế chính trị khác nhau. Pháp luật là công cụ cơ bản để tổ chức và quản lí đời sống cộng đồng nhằm thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự xã hội trên các lĩnh vực của đời sống. Pháp luật là phương tiện để thực hiện những mục đích chung, bảo vệ những lợi ích pháp luật thành những quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội. Mặt khác, chính trị còn là sự thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách kinh tế mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, bản chất của pháp luật do cơ sở kinh tế xã hội và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy định.
Thực tế cho thấy, tính xã hội của các kiểu pháp luật được thể hiện không giống nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội, tính xã hội của pháp luật ngày càng trở nên sâu sắc và rộng rãi hơn. So với pháp luật ngày nay, ý nghĩa xã hội của pháp luật chủ nô, phong kiến nhìn chung còn nhiều hạn chế. Trên bình diện xã hội, pháp luật thời kì này chủ yếu đóng vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trừng trị tội phạm, bảo vệ các công trình công cộng… Pháp luật tư sản ra đời đã thể hiện sự tiến bộ hơn so với pháp luật phong kiến. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật được mở rộng, pháp luật điều chỉnh các quan hệ trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ các quan hệ trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội trong đời sống cộng đồng. Pháp luật trở thành công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ trong nền kinh tế thị trường, thiết lập địa vị pháp lí bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, do bị lũng đoạn bởi các tập đoàn tư bản độc quyền, lại bị lún sâu vào các cuộc chiến tranh xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ, vai trò và ý nghĩa xã hội của pháp luật tư sản thời kì này có nhiều hạn chế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, pháp luật tư sản ngày càng tỏ ra dân chủ, nhân đạo, đảm bảo công bằng, bình đẳng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định, chống khủng hoảng xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong điều kiện ngày nay, pháp luật được xem như là công cụ quan trọng để chống lại sự tha hoá của quyền lực nhà nước, bảo vệ con người, bảo vệ công lí. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện tính xã hội rộng rãi và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu pháp luật trước đó. Nó là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật vì con người, nhằm phục vụ con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát huy tài năng, phát triển toàn diện.
Bên cạnh tính xã hội, pháp luật còn thể hiện tính giai cấp. Do chiếm ưu thế về mọi mặt trong xã hội, giai cấp thống trị thông qua nhà nước tìm mọi cách đặt ra các quy định pháp luật có lợi cho giai cấp mình. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước. Ý chí đó được cụ thể hoá thành các quy tắc xử sự cụ thể do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Nhờ có sức mạnh của nhà nước bảo đảm, những quy tắc xử sự đó trở thành bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội. Dưới góc độ này, pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội. Pháp luật điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, nhằm bảo vệ lợi ích và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật là công cụ ý nghĩa xã hội của pháp luật tư sản thời kì này có nhiều hạn chế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây, pháp luật tư sản ngày càng tỏ ra dân chủ, nhân đạo, đảm bảo công bằng, bình đẳng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định, chống khủng hoảng xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong điều kiện ngày nay, pháp luật được xem như là công cụ quan trọng để chống lại sự tha hoá của quyền lực để thực hiện sự thống trị giai cấp, ghi nhận, củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu của giai cấp thống trị, bảo vệ địa vị cầm quyền của giai cấp thống trị, “là vũ khí của giai cấp thống trị để trừng trị giai cấp chống lại mình ”, duy trì sự thống trị về tư tưởng đối với toàn xã hội.
Tính giai cấp là thuộc tính chung của các kiểu pháp luật, tuy nhiên mỗi kiểu pháp luật lại có nét riêng và cách biểu hiện riêng. Trong pháp luật chủ nô, tư liệu sản xuất được công khai quy định thuộc về giai cấp chủ nô, nô lệ không được coi là người, trước pháp luật, họ được xem như những công cụ lao động biết nói thuộc sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ. Trong pháp luật phong kiến, người lao động đã thoát khỏi thân phận nô lệ, tuy nhiên địa vị vẫn hết sức thấp kém, họ bị ràng buộc chặt chẽ vào các đặc quyền của địa chủ, phong kiến. Trong pháp luật chủ nô, phong kiến, sự phân biệt đẳng cấp rất rõ nét tùy thuộc vào chức tước, phẩm hàm, tài sản, nguồn gốc xuất thân… Trước pháp luật, địa vị càng cao thì càng có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, pháp luật chủ nô, phong kiến tác động đến các quan hệ xã hội chủ yếu bằng hình phạt với nhiều hình phạt dã man và cách thức thi hành hình phạt tàn bạo. Trên thực tế, phần lớn các văn bản pháp luật thời kì này đều được cấu tạo dưới dạng một bộ luật hình sự. Bộ Quốc triều hình luật của Việt Nam được đánh giá là khá tiến bộ so với đương thời nhưng ngay tại những điều luật đầu tiên đã quy định về hình cụ – hệ thống các công cụ để thi hành hình phạt, trong đó có loại làm bằng cây song không róc bỏ mối mắt. Trong pháp luật tư sản, tính giai cấp đã được che đậy một cách tinh vi, kín đáo khó nhận thấy. Pháp luật tư sản quy định quyền tư hữu là một quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm,1 pháp luật thừa nhận các quyền con người, quyền công dân, thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người… Tuy nhiên, thực chất pháp luật tư sản chỉ bảo vệ sở hữu của nhà tư bản. C.Mác đã chỉ rõ: “Lao động làm thuê, lao động của người vô sản liệu có tạo ra sở hữu cho người vô sản không? Tuyệt đổi không. Nó tạo ra tư bản, tức là tạo ra cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê”? Trên thực tế, giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê khó mà có được sự bình đẳng thực sự. Lênin đã khẳng định, trong xã hội có áp bức bóc lột thì không thể có bình đẳng đối với người bị bóc lột. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, pháp luật tư sản thể hiện tính giai cấp một cách công khai và sâu sắc. Pháp luật thời kì này được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để chống lại phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân hòng bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản nhất là các tập đoàn tư sản lũng đoạn, các thế lực quân phiệt, tài phiệt. Trong thời kì hiện nay, pháp luật tư sản đã thể hiện sự tiến bộ về chất so với trước đó. Mặc dù vậy, sự giàu có vẫn chi phối thắng thế trong pháp luật, ngay cả trong điều kiện “dân chủ tư sản” thì điều này vẫn không tránh khỏi. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của tuyệt đại đa số trong xã hội. Nó là công cụ để nhân dân lao động chống lại các thế lực thù địch, phản động, xây dựng chế độ mới không có áp bức bất công.
2- Bản chất và đặc điểm của pháp luật Việt Nam hiện nay
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, truyền thống, lịch sử riêng…, vì vậy pháp luật của mỗi nước luôn có những nét đặc thù. Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do nóng vội, chủ quan, duy ý chí, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa thu được những thành tựu như mong muốn. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ đó đến nay, tình hình kinh tế xã hội của đất nước có những bước phát triển đáng kể. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, việc hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là những nhân tố vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được xây dựng trên cơ sở kinh tế là các quan hệ sản xuất gắn với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; cơ sở xã hội là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; cơ sở tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng như các pháp luật khác, pháp luật Việt Nam hiện nay vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp.
Tính xã hội là thuộc tính nổi bật của pháp luật Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa xã hội rộng lớn của pháp luật Việt Nam hiện nay thể hiện trên nhiều mặt. Pháp luật không chỉ là quy tắc ứng xử của mọi tổ chức và cá nhân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn là cơ sở quan trọng để đảm bảo an ninh, an toàn cho mỗi người, đảm bảo ổn định, trật tự xã hội. Pháp luật là phương tiện quan trọng nhất, có hiệu quả nhất để tổ chức và quản lí hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Pháp luật là phương tiện để liên kết mọi tầng lớp dân cư, hợp lực, chung lòng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc bảo vệ chủ quyền quốc gia và các lợi ích quốc gia khác. Pháp luật là công cụ để nhà nước và xã hội thực hiện chính sách uống nước nhớ nguồn, đền ơn, đáp nghĩa, quan tâm, chăm lo cho những người ở vị thế yếu như người già, trẻ em, người khuyết tật, người lang thang, cơ nhỡ, thực hiện việc xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ người bị thất nghiệp, hướng đến việc bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội toàn dân… Pháp luật không đơn thuần là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà đó là sự kết tinh những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân đạo, nhân văn, lương tri và tình người.
Mặc dù vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn thể hiện tính giai cấp. Xã hội Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều giai tầng với những mục tiêu và lợi ích mặc dù không đối lập nhưng vẫn hàm chứa sự khác biệt nhất định. Bởi vậy, cho dù thế nào thì pháp luật vẫn phải thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai tầng đó. Mặt khác, các thế lực thù địch, phản động vẫn nuôi dưỡng âm mưu chống phá nhà nước, chống phá chế độ một cách lâu dài, dai dẳng. Trong điều kiện đó, pháp luật là công cụ tốt nhất để bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động.
Bản chất của pháp luật Việt Nam hiện nay còn được thể hiện thông qua các đặc điểm sau đây:
Một là, pháp luật Việt Nam hiện nay là pháp luật thuộc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kì có sự đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, diễn ra khá lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Hiện nay, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Hai là, pháp luật là cơ sở, hành lang pháp lí cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; xác lập địa vị pháp lí cho các loại hình doanh nghiệp; thừa nhận và bảo vệ quyền tự do kinh doanh; phát triển đồng bộ các loại thị trường; tôn trọng quy luật cung cầu; bảo đảm tự do cạnh tranh, chống độc quyền, chống gian lận trong sản xuất và phân phối, bảo vệ quyền lợi của nhà sản xuất, người tiêu dùng… Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn khá mới mẻ, nhiều vấn đề còn đang trong quá trình tìm tòi. Chính vì vậy, hệ thống thể chế pháp lí cho sự tồn tại và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang được từng bước xác lập và hoàn thiện.
Ba là, pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của nhân dân, đó là hệ thống pháp luật của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Chính vì vậy, “Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động”.
Bổn là, pháp luật là sự thể chế hoá chủ trương, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp đã xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Đe thực hiện sự lãnh đạo của mình, Đảng đề ra chủ trương, đường lối chính sách về phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng… Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, làm cho đường lối của Đảng đi vào đời sống, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Năm là, pháp luật xác lập cơ sở pháp lý cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vị trí rất quan trọng. Pháp luật quy định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; quy định việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; củng cố và mở rộng dân chủ xã hội; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật trong xã hội…
Sáu là, pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo, sự vị tha, tinh thần tập thể, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tinh thần đoàn kết, đạo lí uống nước nhớ nguồn, tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc sẻ chia, đề cao các giá trị gia đình, tôn trọng người già, coi trọng việc học hành, tinh thần tôn sư trọng đạo, cần cù, tiết kiệm…
Bảy là, pháp luật đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện. Công cuộc đổi mới đất nước càng trở nên toàn diện và đi vào chiều sâu càng đòi hỏi sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Sự phát triển trên nhiều mặt của đời sống xã hội làm cho phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng. Các quan hệ kinh tế xã hội vận động, biến đổi nhanh chóng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải được bổ sung, sửa đổi thường xuyên, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc sống.
Tám là, pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang tham gia sâu rộng vào quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế, giao lưu quốc tế về kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học kĩ thuật… ngày càng rộng, sự ảnh hưởng của truyền thông quốc tế ngày càng lớn. Những yếu tố đó có tác động mạnh mẽ đến pháp luật nước ta, đòi hỏi các quy định pháp luật Việt Nam phải phù hợp với những chuẩn mực chung của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Luật sư: Nguyễn Thị Bích Phượng – Trưởng phòng Doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Lý Luận chung về nhà nước và pháp luật – Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).