Bài thu hoạch nâng hạng giáo viên Mầm non hạng 3 (4 Mẫu)

Bài thu hoạch thăng hạng giáo viên Mầm non hạng III gồm 4 mẫu. Đây là bài thu hoạch cuối khóa lớp bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên Mầm non hạng III năm 2021.

Thông qua 4 mẫu bài thu hoạch này, sẽ giúp những giáo viên đang muốn nâng ngạch giáo viên lên hạng III có thêm những kiến thức hữu ích, để hoàn thiện bài thu hoạch của mình. Vậy mời các cô cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:

Bài thu hoạch thăng hạng giáo viên Mầm non hạng III – Mẫu 1

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Việc được hưởng sự chăm sóc và phát triển tốt từ lứa tuổi trẻ thơ sẽ góp phần tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai của trẻ. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ, là nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

Trẻ được lớn lên phát triển toàn diện là nhờ sự chăm sóc của gia đình nhà trường. Mẹ là môi trường học đầu tiên của con và cô là môi trường học thứ hai của con sau mẹ, con mãi là niềm hạnh phúc của mẹ. Là niềm tin của cô giáo là tương lai của dân tộc, là một công dân của thế giới ngày mai. Việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ hiện nay, đang là trách nhiệm của mỗi gia đình, nhà trường và của toàn xã hội, vậy phải làm như thế nào đây để chúng ta có được những người công dân có ích cho xã hội đó là nhiệm vụ của mỗi chúng ta. Những người lớn phải biết chăm lo, bồi dưỡng và phát triển trẻ em thành những con người toàn diện.

Đối với trẻ mầm non cô giáo phải là người vừa dạy, vừa dỗ, vừa là người mẹ chăm sóc vừa là bạn cùng chơi với trẻ, để từ đó mới có những biện pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng trẻ mang lại hiệu quả tốt nhất cho trẻ, để từ đó mới có những biện pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng trẻ mang lại hiệu quả tốt nhất cho trẻ.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác giáo dục mầm non. Tiêu biểu là các vụ bạo hành trẻ em đã bị báo chí phanh phui gần đây, đã làm mất đi hình tượng một người mẹ hiền trong mắt của trẻ và phụ huynh.

Chính vì vậy qua quá trình học tôi thấy tâm đắc nhất với chuyên đề : “Đạo đức của giáo viên mầm non trong việc xử lý các tình huống sư phạm mầm non”.

Chuyên đề này giúp tôi hiểu rõ hơn về các khái niệm tình huống sư phạm trong nhóm, lớp học mầm non. Hiểu đạo đức của giáo viên mầm non và cách biểu hiện hành vi đạo đức trong việc xử lý các tình huống sư phạm trong nhóm, lớp học mầm non. Thực hành cách biểu hiện hành vi đạo đức trong việc xử lý các tình huống sư phạm thực tế.

II. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Giáo dục mầm non là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, Điều 23 mục 1 chương 2 Luật giáo dục có chỉ rõ “Nội dung giáo dục mầm non là phải bảo đảm phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục giúp trẻ em phát triển cân đối khoẻ mạnh, nhanh nhẹn biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với người lớn, bạn bè,…thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học. Điều 24 có quy định “Chương trình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non, cụ thể hoá các yêu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi, quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ em ở tuổi mầm non.

Trong giáo dục hiện nay muốn thực hiện tốt mục tiêu và nội dung trên, hơn ai hết, những thầy giáo, cô giáo cần ý thức được trách nhiệm lớn lao của mình để từ đó không ngừng bồi dưỡng, nâng cao những phẩm chất đạo đức, kỹ năng xử lý tình huống sư phạm, hoàn thành tốt sự nghiệp trồng người, xứng đáng là tấm gương sáng để học sinh noi theo.

III. CƠ SỞ THỰC TIỄN

Qua 12 năm công tác tôi nhận thấy: Trẻ mầm non rất tinh nghịch, hiếu động mà người lớn thường thấy ngộ nghĩnh, đáng yêu. Song bên cạnh đó còn có những trẻ có biểu hiện khác thường khiến cô giáo rất trăn trở… đó là trẻ có những biểu hiện khác thường không giống các bạn khác ở trong lớp hay còn gọi là trẻ “cá biệt” những trẻ này thường có những biểu hiện:

– Trẻ nhút nhát, rụt rè, hay khóc không thích tham gia vào các hoạt động cùng bạn, lười ăn, phản ứng chậm .

Trẻ quá hiếu động, tự do cười nói trong giờ học, giờ ăn, không làm theo sự hướng dẫn của cô, hay vứt đồ chơi và tranh giành đồ chơi với bạn, không nghe lời cô giáo ông bà, bố mẹ.

Trước hiện tượng lớp học như thế, bản thân tôi nhận thấy cần phải có biện pháp nào đó với mục đích làm giảm, hạn chế đến mức cho phép các hành vi mà trẻ “cá biệt” gây ra, làm bình ổn nề nếp của lớp học giúp cho trẻ có tính nhút nhát rụt rè phát huy được tính tích cực hòa chung với không khí học tập của lớp, giúp trẻ nhận ra hình thức sai trái của mình với phương châm “dạy trẻ từ thủa còn thơ” để trẻ cá biệt nói riêng trẻ mầm non nói chung có bước đệm sau này trong việc hình thành nhân cách con người mới hoàn hảo.

Trong giáo dục ngành học sư phạm mầm non, các tình huống thường xuyên xảy ra và muôn màu, muôn vẻ: Khi thì do mâu thuẫn của trẻ và điều kiện sống, khi thì đòi hỏi của người lớn xung quanh với khả năng và tính nết của trẻ, có khi lại do mâu thuẫn của chính trẻ em với nhau trong hoạt động.

Tình huống trong giáo dục mầm non vô cùng phong phú và đa dạng bởi sự phát triển của trẻ rất khác nhau. Mỗi cháu một tính nết riêng, một khả năng riêng, tình huống lại xảy ra trong những thời điểm và không gian khác nhau. Không thể có một giải pháp nào chung cho mọi đứa trẻ vì mỗi bé là một con người riêng biệt.

Thời gian qua, ở một vài tỉnh, thành trong nước liên tiếp xảy ra những vụ việc giáo viên mầm non bạo hành trẻ nhỏ, gây tâm lý phẫn nộ trong xã hội. Trong thực tế tại trường tôi công tác, đôi khi giáo viên chưa kìm chế được cảm xúc nên vẫn còn tình trạng la mắng, quát tháo học sinh.

Vì thế, vấn đề nâng cao chuẩn mực đạo đức của người dạy và trông trẻ đang được ngành Giáo dục Cà Mau nói riêng và cả nước nói chung vô cùng quan tâm. Với nhiều biện pháp quyết liệt của các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh, đội ngũ giáo viên mầm non đã và đang dần nỗ lực tự hoàn thiện bản thân, tạo niềm tin đối với các bậc phụ huynh.

* Những nguyên nhân dẫn đến những thực trạng đó là:

– GV chưa hiểu trẻ và đáp ứng nhu cầu cho trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non.

– GV đôi khi không kìm chế được cảm xúc nên ảnh hưởng đến trẻ.

– Trẻ trong lớp quá đông cũng tạo nhiều áp lực cho GV, GV sẽ thường xuyên bị căng thẳng, từ đó mà tâm trạng không tốt.

– Do khối lượng công việc quá nhiều, áp lực của công việc khiến GV cảm thấy mệt mỏi sẽ ảnh hưởng nhiều đến giao tiếp với trẻ.

– GV có quan niệm sai lầm khi cho rằng trẻ tuổi này rất bướng, rất lỳ, và phải giáo dục nghiêm khắc, phải trách phạt, la mắng cho trẻ biết sợ, biết chừa, thường cấm đoán và chỉ mong trẻ biết nghe lời.

Chính vì vậy Khả năng truyền đạt cho trẻ mầm non phải được trau dồi liên tục. Để giúp cho cô giáo mầm non đỡ lúng túng khi tìm các giải pháp cho các tình huống có thể xảy ra khi tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ,

IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP

Biện pháp 1: Đạo đức phải có của người GVMN trong giao tiếp ứng xử với trẻ mầm non:

– Trong chăm sóc, giáo dục trẻ GV cần phải luôn luôn yêu thương trẻ như con, khéo léo và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của trẻ.

– Giáo viên cần dành mọi suy nghĩ, hành động ưu ái cho trẻ, vì trẻ đảm bảo cho trẻ phát triển tối đa những tiềm năng vốn có.

– Giao tiếp ứng xử với trẻ bằng những hành vi cử chỉ dịu hiền, nhẹ nhàng, cởi mở, vui tươi tạo cho trẻ một cảm giác an toàn, bình yên, dễ chịu được khi đến trường.

– Tạo ra một bầu không khí thân thiện, cởi mở trong suốt quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ là điều rất quan trọng.

– Giáo viên cần hiểu trẻ, nên tìm những điểm tốt, điểm tích cực của trẻ để nêu gương, khích lệ trẻ tạo cho trẻ có được sự tự tin, phấn khởi.

– Cần tôn trọng trẻ, lắng nghe ý kiến của trẻ và sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của trẻ, không nên lờ đi trước ý kiến của trẻ.

– Giáo viên ứng xử công bằng với tất cả trẻ, không phân biệt, so sánh trẻ này với trẻ khác

Biện pháp 2: Phải có kỹ năng trong xử lí tình huống:

– Trước mỗi tình huống, GV cần bình tĩnh không nên vội vàng, nóng nảy.

– Cần linh hoạt trong cách xử lý tình huống với trẻ, không nên cứng nhắc vì mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt, một tính cách và sở thích khác nhau.

– Thường xuyên sinh hoạt chuyên môn, cán bộ quản lý có thể nêu ra các tình huống để giáo viên giải quyết.

– Hướng dẫn giáo viên cách phân tích tình huống dựa trên đặc điểm của trẻ từ đó đưa ra cách giải quyết tình huống trong giao tiếp, ứng xử với trẻ, tính ứng dụng cao.

Biện pháp 3: Rèn luyện hành vi/ thói quen đạo đức của GVMN trong các tình huống giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non:

– Chấp hành thực hiện mọi chủ trương chính sách, quy định của Ngành, của bậc học.

– Cùng tập thể giáo viên trong nhà trường xây dựng các quy định, yêu cầu về đạo đức trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với trẻ, với phụ huynh.

– Phải là tấm gương sáng, mẫu mực về phong cách trước tập thể từ việc đi đứng, nói năng điềm đạm, ăn mặc giản dị, đúng mực; cách làm việc khoa học.

– Tạo ra một bầu không khí thân thiện, cởi mở, công bằng cùng chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau là điều rất quan trọng.

– Không ngừng nâng cao nhận thức của GVMN về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ

– Tổ chức trao đổi, thảo luận về những đặc điểm đặc trưng của trẻ từ đó cùng nhau đưa ra những biện pháp trong việc giao tiếp, ứng xử với trẻ đạt hiệu quả như mong muốn.

…………

Bài thu hoạch thăng hạng giáo viên Mầm non hạng III – Mẫu 2

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

Trong lĩnh vực giáo dục nói chung và lĩnh vực giáo dục mầm non nói riêng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện tốt các nhiệm vụ của viên chức giảng dạy và chăm sóc trẻ, đáp ứng các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho giáo viên mầm non. Đồng thời nhằm bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh ngề nghiệp giáo viên mầm non hạng III và xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III. Với những lý do trên, trong dịp hè năm 20….., Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Dương đã phối hợp với Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên cho các cấp học trên địa bàn tỉnh. Tôi đã mạnh dạng đăng ký tham gia lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho giáo viên mầm non hạng III.

Qua quá trình học tập, nghiên cứu cùng với sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho giáo viên mầm non tôi đã nắm bắt được nội dung của từng chuyên đề

Chuyên đề 1: Tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước

Chuyên đề 2: Luật trẻ em và hệ thống quản lí giáo dục

Chuyên đề 3: Kĩ năng làm việc nhóm

Chuyên đề 4: Kĩ năng quản lí thời gian

Chuyên đề 5: Phát triển chương trình giáo dục mầm non của khối lớp

Chuyên đề 6: Xây dựng môi trường tâm lí – xã hội trong giáo dục trẻ ở trường mầm non

Chuyên đề 7: Đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non

Chuyên đề 8: Sáng kiến kinh nghiệm trong giáo dục mầm non

Chuyên đề 9: Kĩ năng hướng dẫn, tư vấn phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên

Chuyên đề 10: Tổ chức, huy động cộng đồng tham gia giáo dục trẻ mầm non

Chuyên đề 11: Đạo đức của giáo viên mầm non trong xử lý tình huống sư phạm ở trường mầm non

Trong các chuyên đề trên đều là những kiến thức bổ ích phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ của bản thân mỗi giáo viên. Một trong các chuyên đề giúp tôi hiểu sâu hơn và có thể áp dụng hiệu quả hơn trong hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ của bản thân đó là chuyên đề “Xây dựng môi trường tâm lí – xã hội trong giáo dục trẻ ở trường mầm non”. Đây cũng là một trong những chuyên đề mà các đơn vị trường học trên địa bàn huyện tôi đã triển khai và đang thực hiện.

Hiện nay ngành giáo dục đang từng bước chuyển đổi từ chương trình giáo dục đến hình thức và phương pháp giáo dục để đạt hiệu quả cao nhất. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi ngành giáo dục phải “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo thông qua việc quản lí, phát triển đúng định hướng và hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” – chỉ thị số 40/CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban bí thư.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đầu tư kinh phí xây dựng các phòng học, mua sắm trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi cho các trường mầm non được hoạt động tích cực đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy và phát động các cuộc vận động, các phong trào thi đua nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Điển hình là công văn số 9761/BGDĐT-GDMN ngày 20/10/2008, hướng dẫn và triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” bậc học mầm non; chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” với mong muốn động viên, khuyến khích thầy cô giáo, cán bộ quản lí, toàn thể học sinh cùng các lực lượng ngoài xã hội tích cực, chủ động tham gia xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, an toàn, hình thành và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở trẻ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ được phát triển toàn diện về mọi mặt.

Tuy nhiên trên thực tế việc xây dựng môi trường thân thiện – môi trường tâm lý – xã hội cho trẻ ở trường mầm non chưa thực sự được chú trọng. Trong thời gian vừa qua ngành giáo dục luôn phải đối mặt với các vấn nạn về bạo hành trẻ (kể cả thể chất lẫn tinh thần, “khủng bố” trẻ bằng lời nói…), đánh trẻ, xâm hại trẻ em xảy ra với môi trường giáo dục làm phụ huynh phải đặt câu hỏi “nơi nào là an toàn cho con trẻ”, trẻ vẫn chưa thật sự ‘thích” đến trường mầm non. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng môi trường vật chất chúng ta cần hết sức quan tâm đến việc xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non để trẻ thực sự cảm nhận được “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”

II. NỘI DUNG:

1. Cơ sở lí luận:

Có thể nói, việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là thực sự cần thiết và quan trọng. Nó được ví như người giáo viên thứ hai trong công tác tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ. Thông qua đó, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện.

Môi trường giáo dục trong nhà trường là tập hợp các yếu tố về vật chất và tâm lý – xã hội có tác động trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng quá trình dạy học và giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Môi trường tâm lý – xã hội được tạo dựng trên cơ sở bầu không khí sư phạm trong nhà trường, mối quan hệ của người dạy với người học, mối quan hệ của người học với nhau. Môi trường tâm lý – xã hội trong nhà trường ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm và hành vi của người học cũng như ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của quá trình giáo dục. Như vậy, môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non là môi trường được tạo dựng trên cơ sở bầu không khí sư phạm trong nhà trường, mối quan hệ tác động qua lại giữa người lớn với trẻ (giáo viên mầm non, cán bộ công nhân viên trong trường, phụ huynh, khách), người lớn với người lớn, trẻ với trẻ.

Trẻ em lứa tuổi mầm non đang trong giai đoạn đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân cách. Sự phát triển của trẻ được quyết định bởi một tổ hợp các điều kiện: đặc điểm phát triển cơ thể của trẻ, điều kiện sống, mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh, mức độ tích cực hoạt động của bản thân trẻ. Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội nhờ sự tiếp xúc với người lớn. Việc tạo nên bầu không khí tâm lý – xã hội dựa trên các giá trị trong xây dựng môi trường nhà trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hiệu quả giáo dục vì nó đáp ứng các nhu cầu quan trọng của trẻ. Theo đó, môi trường nhà trường cần được thiết lập trên nền tảng các giá trị. Kết quả nghiên cứu của UNESCO trong chương trình giáo dục giá trị sống toàn cầu trẻ em cần được sống trong môi trường mà trẻ cảm thấy: được an toàn, được có giá trị, được yêu thương, được hiểu và được tôn trọng.

2. Thực trạng:

Tôi là một giáo viên của trường Mầm non Tân Lập trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trường tôi nằm ở điểm trường nông thôn nhưng cơ bản cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường cũng đã cố gắng xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 và đạt danh hiệu trường đạt chuẩn chất lượng giáo dục mức độ 3 vào năm 2017.

Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường năm học 2017 – 20….. có 22/24 người nữ. Trong đó:

– Cán bộ quản lý: 03 người

– Giáo viên: 12 người

– Nhân viên: 09 người

– Tổng số lớp: 06 lớp (2 lá, 2 chồi, 1 mầm, 1 nhóm trẻ)

– Tổng số trẻ: 69/163 trẻ nữ (bán trú 100%)

Trong năm học vừa qua, nhà trường đã phát động cho toàn giáo viên tham gia xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, xây dựng trường học an toàn, thân thiện… Bản thân tôi cũng đã tích cực tham gia các phong trào. Tuy nhiên, tôi chỉ mới nắm bắt được những nội dung cơ bản nên khi bắt tay vào thực hiện thì còn rất lúng túng và kết quả đạt được chưa cao. Vì là một giáo viên tâm huyết với nghề nên kết quả đó làm tôi rất trăn trở và tự đặt câu hỏi cho mình: xây dựng môi trường thân thiện, môi trường tâm lý – xã hội là xây dựng thế nào? Phải áp dụng những giải pháp gì? Thực hiện bằng cách nào và bắt đầu từ đâu?… Sau khi tham gia lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III tôi “bắt gặp” được chuyên đề “xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trong giáo dục trẻ ở trường mầm non” với sự truyền đạt, hướng dẫn, chia sẻ của Tiến sĩ Phạm Phước Mạnh – giảng viên khoa tâm lý trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tôi đã có thể xác định được “hướng đi” cho mình trong việc xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non đạt hiệu quả và tôi sẽ áp dụng vào thực tế khi năm học mới 20….. – 2019 bắt đầu.

Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường, của bản thân và kết quả họat động của những năm vừa qua tôi cũng đã xác định được một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyên đề này.

* Thuận lợi:

– Được sự chỉ đạo, quan tâm, hỗ trợ tư vấn của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường.

– Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, của cộng đồng.

– Bản thân tôi là một giáo viên chủ động, tích cực trong việc tìm tòi, học hỏi và đã được tham gia bồi dưỡng chuyên đề “xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong giáo dục trẻ ở trường mầm non”.

* Khó khăn:

– Giáo viên chưa có nhiều kỹ năng trong việc xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non.

– Kỹ năng giao tiếp ứng xử của bản thân giáo viên chưa khéo léo, nhanh nhạy khi có tình huống bất ngờ xảy ra.

– Chưa nhận được sự hợp tác, phối hợp của một vài phụ huynh và thành viên trong nhà trường trong việc xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non.

3. Giải pháp:

Xuất phát từ những lý do và thực trạng nêu trên và thông qua việc tham gia lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp trong thời gian vừa qua tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Tôi đã nghiên cứu, sưu tầm và đưa ra những giải pháp xây dựng môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non như sau:

Giải pháp 1: Xây dựng môi trường tâm lý – xã hội mang tính chất của môi trường gia đình

Trước khi đến trường mầm non, trẻ em được sống trong môi trường gia đình, được chăm sóc, dạy dỗ bằng tình cảm yêu thương ruột thịt. Điều này không có được ở trường mầm non. Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ của trường mầm non là nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em nhằm giúp trẻ em hình thành những yếu tố ban đầu của nhân cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một (Điều lệ trường mầm non), phát huy hết những tiềm năng đang nảy nở ở trẻ thì nhà trường cần xây dựng môi trường tâm lý – xã hội mang tính chất của môi trường gia đình. Đó là:

– Môi trường an toàn: Môi trường tâm lý – xã hội trong trường mầm non cần đảm bảo trẻ được chăm sóc, giáo dục bằng tình cảm thương yêu. Khi được sự quan tâm chăm sóc của tất cả các thành viên trong nhà trường, đặc biệt là cô giáo sẽ tạo ra ở trẻ sự an toàn cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhờ đó trẻ mới cảm thấy yên tâm, mới vui tươi hồn nhiên, mới mạnh dạng thăm dò, thử nghiệm, khám phá thế giới xung quanh. Hoạt động trong môi trường tâm lý – xã hội nhà trường mang đặc trưng văn hóa gia đình, trẻ em được người lớn chăm sóc, giáo dục bằng tình cảm thương yêu, được thỏa mãn đầy đủ và kịp thời, hợp lí mọi nhu cầu để phát triển. Đây là điều kiện tiên quyết để trẻ trưởng thành.

Ví dụ: Khi trẻ lần đầu tiên bước chân vào trường mầm non “ngày đầu tiên đi học” nhất là trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ và mầm trẻ sẽ rất là bỡ ngỡ, lo lắng và đa số trẻ sẽ khóc vì có thể nói đây là lần đầu tiên trẻ rời xa gia đình, rời xa “môi trường an toàn” vốn có. Nếu cô giáo không quan tâm, vỗ về trẻ sẽ cảm thấy không an toàn và sẽ quấy khóc nhiều hơn. Trẻ cần được cô giáo quan tâm, vỗ về, chăm sóc, trò chuyện dần dần trẻ sẽ quen với môi trường mới và không còn quấy khóc nữa. Vì lúc đó trẻ đã cảm nhận được ở trường cũng được an toàn như ở gia đình.

– Môi trường phong phú: Trường mầm non có nhiều thành viên như hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên, nhân viên, trẻ em, phụ huynh của trẻ tạo ra các mối quan hệ phong phú, đa dạng giữa nhiều người ở những độ tuổi và thế hệ khác nhau. Trong môi trường phong phú các mối quan hệ này, trẻ có nhiều cơ hội để giao tiếp, học hỏi, mở rộng khiến thức cũng như rèn luyện các kỹ năng sống cần thiết (sự tự tin, sự tò mò, khả năng sáng tạo, kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng giữ an toàn cá nhân)

Ví dụ: Khi bước vào môi trường phong phú các mối quan hệ như trường mầm non trẻ sẽ nhìn thấy, nghe thấy và học được các quy tắc ứng xử như thế nào cho phù hơp. Khi thấy cô giáo nói chuyện với ba mẹ mình trẻ sẽ nhận ra quy tắc trong giao tiếp như kính trọng, vui tươi, cởi mở. Trẻ nắm được cách giao tiếp với người lớn là phải kính trọng, lễ phép hoặc là khi chơi với bạn phải biết đoàn kết, không tranh giành hay tự ý lấy đồ của bạn, biết nói lời cám ơn và xin lỗi khi cần thiết…

Để phù hợp với đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ mầm non là nhận thức cảm tính, trường mầm non luôn sẵn có đồ dùng đồ chơi, phương tiện trực quan như tranh ảnh, mô hình, băng hình. Đặc biệt các đồ dùng sinh hoạt như ca cốc, bát thìa, bàn ghế, cây trồng, vật nuôi… đều được giáo viên sử dụng trong quá trình chăm sóc, giáo dục giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về tên gọi, đặc điểm, công dụng/ích lợi, cách sử dụng/cách chăm sóc chúng. Đồng thời hình thành ở trẻ thái độ đúng đắn cũng như các thói quen tốt, các hành vi tích cực trong ứng xử với môi trường sống như biết giữ gìn đồ dùng đồ chơi, biết chăm sóc, bảo vệ vật nuôi, cây trồng…

Ví dụ: Hiện nay chúng ta đang thực hiện chuyên đề “lấy trẻ làm trung tâm” trong mọi hoạt động, tích cực cho trẻ hoạt động trải nghiệm khám phá chứ không “nhốt” trẻ trong lớp với bốn bức tường vì lý do “trẻ ra sân khó quản”. Trẻ con rất thích khám phá xung quanh, đặc biệt là những điều mới lạ. Ví dụ khi cho trẻ trải nghiệm về các giác quan chúng ta sẽ cho trẻ được tri giác qua tranh ảnh, vật thật… trẻ được tận mắt nhìn thấy, được dùng mũi để ngửi, dùng tai để nghe, dùng tay để sờ, được dùng miệng để nếm, được cảm nhận sẽ kích thích tất cả các giác quan giúp cho nhận thức của trẻ được mở rộng. Bên cạnh đó giáo viên luôn nhắc nhở, giáo dục trẻ các hành vi tích cực như thu dọn sau khi chơi xong, nhặt rác bỏ vào thùng rác, không nghịch phá đồ vật, con vật nguy hiểm…

+ Môi trường mà người lớn chăm sóc, giáo dục trẻ bằng giao tiếp trực tiếp và thường xuyên: Ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống của cuộc sống, người lớn đều có thể bảo ban, dạy dỗ trẻ. Việc nuôi và dạy trẻ trong môi trường tâm lý – xã hội nhà trường cần được kết hợp một cách khéo léo và tự nhiên.

Ví dụ: Trong giờ tổ chức cho trẻ ăn giáo viên có thể trò chuyện, bảo ban, hướng dẫn trẻ các kỹ năng cần thiết như kỹ năng tự phục vụ (biết lấy chén, lấy muỗng, biết lấy ghế ngồi vào bàn, rửa tay, lau mặt trước và sau khi ăn xong…), kỹ năng giao tiếp, ứng xử (biết mời cô và các bạn khi ăn, biết cám ơn khi cô chia cơm, biết xin lỗi khi lỡ làm đổ cơm của bạn, không lấy đồ ăn của bạn…). Trong tổ chức giờ ngủ, giáo viên có thể cho trẻ nghe những điệu hát, vần thơ hay để trẻ có thể cảm nhận được tinh hoa văn hóa một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Hay trong tổ chức hoạt động dạo chơi ngoài trời khi có bạn lỡ trượt chân vấp ngã tận dụng tình huống đó cô giáo dục trẻ biết giúp đỡ bạn, không trêu ghẹo bạn và xem bạn có bị trầy xướt gì không. Qua đó cô giáo có thể nói cho trẻ biết khi bị trầy xướt thì nên làm thế nào….

+ Môi trường tự do: Trong môi trường tâm lý – xã hội ở nhà trường, tất cả trẻ em đều được tự do hoạt động, được tạo cơ hội để phát triển tối ưu những tiềm năng sẵn có. Mỗi đứa trẻ là một con người riêng biệt, có đặc điểm riêng về thể chất và tâm lý, mỗi trẻ có cách tiếp nhận kinh nghiệm theo cách riêng, tốc độ riêng của mình. Những nét riêng này cần được tôn trọng và khuyến khích để trẻ phát triển một cách độc lập và chủ động.

Môi trường tâm lý – xã hội này tạo điều kiện cho trẻ tự do hoạt động do chính mình và vì chính mình. Khi trẻ hoạt động, người lớn khuyến khích, động viên, tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, khám phá cuộc sống, tìm hiểu, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Do đó, mỗi trẻ đều được phát huy khả năng riêng của mình và hình thành ở trẻ ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm với bản thân, với những người xung quanh, với môi trường mà trẻ đang sống.

Tuy nhiên trên thực tế thì chúng ta vẫn còn “ngại” thay đổi, vẫn còn áp đặt trẻ và dạy theo những thứ chúng ta sẵn có chứ chưa thực sự dạy theo những gì trẻ hứng thú. Ngay trong quá trình tổ chức hoạt động chúng ta vẫn áp đặt câu trả lời, ý tưởng của trẻ. Ví dụ: khi dạy trẻ tìm hiểu về con mèo chúng ta vẫn thường áp đặt trẻ phải trả lời con mèo sống trong gia đình, đẻ con, có 4 chân, kêu meo meo, thích ăn cá và bắt chuột… chứ chúng ta chưa quan tâm đến mong muốn của trẻ “tại sao con mèo thích bắt chuột? Tại sao nó ngủ ngày? Tại sao nó đi rất êm?… Hoặc khi trẻ ra sân hoạt động giáo viên thường cấm đoán không cho trẻ chạy nhảy, la hét. Hay khi trẻ phát hiện có tổ kiến, con sâu thì chúng xúm xít lại mà không theo ý của cô giáo thì lúc đó cô giáo sẽ đến bắt trẻ phải di chuyển đến chỗ khác theo ý cô mà không quan tâm đến nhu cầu của trẻ là đang muốn tìm hiểu vể con sâu hay tổ kiến đó.

+ Môi trường có sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau: Trong môi trường tâm lý – xã hội lành mạnh, người lớn nói chung, cô giáo và bạn bè đều tôn trọng sự lự chọn hoạt động của trẻ, luôn đặt niềm tin nơi trẻ, tin rằng trẻ có khả năng hoàn thành và hoàn thành tốt những hoạt động mà trẻ được tự do lựa chọn. Niềm tin của người lớn, của bạn bè là động lực mạnh mẽ thúc đẩy trẻ hoàn thành nhiệm vụ theo cách tốt nhất có thể với khả năng của trẻ.

Ví dụ: Trong năm học vừa rồi lớp tôi có một bé thừa cân và đang chuẩn bị chạm mức béo phì. Để hạn chế sự tăng cân cho bé tôi đã chủ động phối hợp với gia đình thay đổi một chút trong chế độ ăn và tập luyện cho bé. Tôi thường cho bé ăn nhiều rau hơn các bạn khác, cắt chế độ sữa ở nhà chỉ uống một cốc sữa vào sau bữa ăn sáng tại trường, tôi thường tạo cơ hội cho bé tham gia giúp cô thu dọn bàn ghế, tăng cường vận động hơn các bạn trong các hoạt động. Tuy nhiên trong hai tháng đầu bé vẫn lên cân nhưng với lòng tin bé sẽ giảm được với sự kiên trì của mình thì đến tháng thứ tư bé đã không tăng cân nữa, đến cuối năm thì chiều cao tăng nhưng cân nặng vẫn giữ mức thế là bé không còn nằm trong kênh sức khỏe cần phải theo dõi. Hay trong giờ tập thể dục thì có một vài bé rất nhút nhát không dám tham gia vận động cùng các bạn khi thực hiện một số bài tập như trườn, trèo nhưng với lòng tin của mình đặt vào trẻ tôi đã giúp trẻ mạnh dạng, tự tin tham gia vào hoạt động cùng các bạn.

+ Môi trường khuyến khích trẻ tích cực, chủ động trong họat động: Với đồ dùng đồ chơi phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc được bố trí trên những chiếc giá vừa tầm với trẻ. Với thái độ cởi mở, vui tươi, với hành vi, cử chỉ nhẹ nhàng, ánh mắt trìu mến của cô giáo, sự cổ vũ của bạn bè, trẻ thực sự được sống trong môi trường an toàn, phong phú. Điều này làm nảy sinh ở trẻ những xúc cảm tích cực và lòng khao khát được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm.

Ví dụ: Khi cho trẻ tìm hiểu về nghề xây dựng mà giáo viên chuẩn bị nhiều đồ dùng đồ chơi liên quan đến nghề như cái bay, gạch, cát, xi măng, đồ bảo hộ, tranh ảnh các công trình, video cách trộn hồ, cách xây gạch… sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp thu hơn nghề xây dựng là nghề như thế nào, cần có những đồ dùng gì, tạo ra những sản phẩm ra sao… chứ không chỉ đơn thuần ta chỉ cung cấp cho trẻ cái bay và gạch xây dựng mà trẻ có thể hiểu hết về nghề xây dựng.

Giáo viên phải cho trẻ tiếp xúc với đồ dùng đồ chơi chứ không phải làm để trưng bày.

Ví dụ: Khi giáo viên tổ chức hoạt động cho trẻ in, vẽ hoa quả bằng rau củ không chỉ chuẩn bị màu nước, rau củ mà giáo viên nên chuẩn bị thêm màu lông, màu sáp, giấy màu… để trẻ có thể tiếp xúc và sử dụng nhiều loại màu khác nhau để tạo nên bức tranh. Và trong quá trình trẻ thực hiện giáo viên thường xuyên khơi gợi, động viên, khích lệ trẻ thì trẻ sẽ tạo ra được những sản phẩm có tính mới lạ, độc đáo hơn.

Để có thể xây dựng môi trường nhà trường nhân văn và thân thiện, giáo viên cần có một số kỹ năng như: biết lắng nghe trẻ, có lời nói và cử chỉ thể hiện sự quan tâm, tôn trọng trẻ, biết chia sẻ và thấu hiểu những vấn đề trẻ đang gặp phải trong học tập và cuộc sống, công bằng với trẻ, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện để trẻ bộc lộ bản thân, biết cách khích lệ và động viên trẻ để trẻ thích nghi với môi trường lớp học, vượt qua những trở ngại…

Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống nội quy, quy tắc giao tiếp, ứng xử trong trường mầm non

Để xây dựng được môi trường tâm lý – xã hội mang tính chất của môi trường gia đình, môi trường tâm lý – xã hội lành mạnh, an toàn, thân thiện trong trường mầm non thì chúng ta cũng cần phải xây dựng một hệ thống nội quy, quy tắc ứng xử, các mối quan hệ và hành vi tích cực trong trường mầm non.

Việc xây hệ thống nội quy, quy tắc ứng xử phải dựa trên tinh thần cộng tác, có những nội quy, quy tắc chung và riêng phù hợp cho từng đối tượng nhưng phải dựa vào các yếu tố như sau:

– Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp: nghĩa là phải coi đối tượng giao tiếp là một cá nhân, một con người, một chủ thể với đầy đủ các quyền vui chơi, học tập, lao động… với những đặc trưng tâm lý riêng biệt, họ có quyền bình đẳng với mọi người trong các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội, vị thế có khác nhau nhưng nhân cách là bình đẳng. Nhu cầu được tôn trọng là nhu cầu đặc trưng của con người. Tôn trọng nhân cách sẽ giúp họ cởi mở, tự tin trong giao tiếp. Tôn trọng người khác là tôn trọng chính mình.

Ví dụ: Trong lớp học của chúng ta có những đứa trẻ gia đình có điều kiện nên lúc nào cũng tinh tươm, sạch sẽ còn có những đứa trẻ gia đình khó khăn hơn một chút, nhìn vẻ ngoài có yếu ớt hơn không vì thế mà ta cứ quấn quýt bên đứa trẻ tinh tươm kia mà quên đứa trẻ có gia cảnh khó khăn. Chính những đứa trẻ yếu ớt, khó khăn đó mới là đối tượng mà chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn chứ không phải bỏ mặc.

– Thiện ý trong giao tiếp: Trong các mối quan hệ xã hội đặc biệt là trường mầm non rất cần sự thiện ý. Thiện ý trong giao tiếp nghĩa là luôn nghĩ tốt, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng giao tiếp. Cung cách ứng xử thể hiện cái tâm của con người, người có tâm nhân hậu dễ thông cảm, chia sẻ với bất hạnh, rủi ro, vui với thành công của người khác, mong muốn người khác tiến bộ, thành đạt. Cái tâm nhân hậu giúp chủ thể thiết lập được các mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh và ngược lại người có tâm không nhân hậu thường ích kỉ, thiếu tôn trọng người khác, không biết cảm thông, chia sẻ, hay đố kỵ với thành công của người khác.

– Vô tư trong giao tiếp: nghĩa là trong giao tiếp chủ thể không bao giờ được lợi dụng đối tượng giao tiếp cả về vật chất và tinh thần. Đây là điều kiện để xây dựng, duy trì các mối quan hệ lâu dài, tốt đẹp với những người xung quanh.

– Đồng cảm trong giao tiếp: nghĩa là chủ thể giao tiếp biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, vào hoàn cảnh, vào lứa tuổi để cảm thông, chia sẻ niềm vui, nổi buồn của họ. Suy nghĩ, thái độ, hành động của mỗi người là khác nhau. Nếu ta cứ khăng khăng bắt người khác phải theo mình khó tránh khỏi những bất bình. Đồng cảm giúp đối tượng giao tiếp cởi mở hơn và tạo được niềm tin, tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo ra cảm giác an toàn và hứng thú khi giao tiếp với nhau.

Ví dụ: Trong lớp có một vài phụ huynh thường đưa con đi học rất sớm hoặc đón rất muộn nhưng không vì thế mà ta cáu gắt, khó khăn với trẻ với phụ huynh mà phải biết tìm hiểu lý do và thông cảm cho họ như vậy mới tạo dựng được mối quan hệ tốt và tạo được cảm giác an toàn cho trẻ.

Ở đơn vị tôi cũng đã xây dựng những bảng nội quy cho toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và phụ huynh của trường tuy nhiên còn mang tính chất chung chung chưa được cụ thể hóa như trong giải pháp đã nêu. Nhà trường xây dựng một bảng nội quy dành chung cho phụ huynh và trẻ chỉ đơn thuần là quy định giờ giấc đón – trả trẻ, đồng phục, tư trang của trẻ khi vào trường, đối tượng phụ huynh được đón trẻ chứ chưa xây dựng nội quy, quy tắc ứng xử, giao tiếp. Sau khi được tìm hiểu chuyên đề, với cương vị là một giáo viên – một tổ trưởng chuyên môn căn cứ vào Quy định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/04/2008 quy định về đạo đức nhà giáo; căn cứ quyết định số 03/2007/QĐ-BNV quy tắc ứng xử của cán bộ công chức viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương; căn cứ vào Điều lệ trường mầm non tôi cũng đã mạnh dạng xây dựng được bảng nội quy, quy tắc giao tiếp, ứng xử với từng đối tượng trong trường mầm non và tôi sẽ tham mưu Ban giám hiệu bổ sung, chỉnh sửa và áp dụng trong năm học mới như sau:

– Nội quy, quy tắc giao tiếp, ứng xử của giáo viên với trẻ mầm non:

+ Yêu thương trẻ như con em của mình.

+ Giao tiếp, ứng xử thành tâm, thiện ý. Biết lắng nghe và cùng chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống. Không phân biệt đối xử, công bằng với trẻ. Giúp đỡ, quan tâm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.

+ Thỏa mãn hợp lý các nhu cầu cơ bản của trẻ (nhu cầu an toàn, tự khẳng định, vui chơi, giao tiếp, nhu cầu tình cảm…). Mềm mỏng nhưng kiên quyết đưa trẻ vào nề nếp nhà trường.

…………………

Bài thu hoạch thăng hạng giáo viên Mầm non hạng III – Mẫu 3

I. PHẦN MỞ ĐẦU

Qua quá trình học tập và nghiên cứu cũng như sự hướng dẫn, truyền đạt của các thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên Mầm non ở hạng III, tôi nắm bắt được các nội dung như sau:

Nắm bắt xu hướng phát triển của giáo dục, tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, giáo dục mầm non trong xu thế đổi mới, các mô hình quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường… . Những mặt được và mặt hạn chế của các mô hình quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường đó.Vận dụng sáng tạo và đánh giá được việc vận dụng những kiến thức về giáo dục học và tâm sinh lý lứa tuổi vào thực tiễn giáo dục học sinh mầm non của bản thân và đồng nghiệp. Chủ động, tích cực phối hợp với đồng nghiệp, cha mẹ học sinh và cộng đồng để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh mầm non.

Nắm vững và vận dụng tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục tiểu học; chủ động tuyên truyền và vận động đồng nghiệp cùng thực hiện tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Hiểu rõ chương trình và kế hoạch giáo dục mầm non; hướng dẫn được đồng nghiệp cùng thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục mầm non.

Chương trình học giúp tôi xác định những việc cần làm để phát triển năng lực chuyên môn , hoàn thiện nhân cách và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp .

Để viết bài thu hoạch này , tôi đã sử dụng một số phương pháp như sau :

Phương pháp thu thập tài liệu.

Phương pháp phân loại tài liệu .

Phương pháp nghiên cứu tài liệu .

Phương pháp điều tra .

Phương pháp tổng hợp .

II. PHẦN NỘI DUNG

Phần I. KIẾN THỨC VỀ CHÍNH TRỊ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ CÁC KỸ NĂNG CHUNG

Gồm 3 chuyên đề cụ thể như sau: Quản lý giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; Đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non; Luật trẻ em và hệ thống quản lý giáo dục.

1. Chuyên đề 1: Quản lý giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa

Chuyên đề này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về khái niệm quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục nói riêng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các chính sách về phát triển giáo dục.

1. Quản lý nhà nước về giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

1.1.Quản lý nhà nước về giáo dục

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục

Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực của các cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ thống giáo dục quốc dân.

1.1.2. Tính chất nhà nước về giáo dục và đào tạo

– Tính lệ thuộc vào chính trị

– Tính xã hội

– Tính pháp quyền

– Tính chuyên môn nghiệp vụ

– Tính hiệu lực hiệu quả.

1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

1.2.1. Đường lối và quan điểm chỉ đạo đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

– Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý giáo dục.

– Nguyên tắc tập trung dân chủ

– Nguyên tắc pháp chế

– Nguyên tắc kết hợp nhà nước và xã hội.

– Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ.

– Nguyên tắc khoa học.

– Nguyên tắc tính hiệu quả tính thiết thực và cụ thể.

– Nguyên tắc kế hoạch.

1.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng XHCN

1.3. Mô hình quản lý công mới và áp dụng đối với giáo dục đào tạo

1.4. Cải cách hành chính nhà nước trong giáo dục đào tạo

1.4.1. Mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước trong giáo dục đào tạo

1.4.2. Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước trong giáo dục đào tạo giai đoạn 2016-2020

2. Chính sách phát triển giáo dục

2.1. Chính sách phổ cập giáo dục

– Nghị định 20/2014/ NĐ –CP ngày 24 tháng 3 năm 2014 về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.

2.2. Chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng hưởng thụ giáo dục và các vùng miền.

2.3. Chính sách chất lượng

2.4. Chính sách xã hội hóa và huy động các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục.

2.5. Chính sách đầu tư cho phát triển giáo dục

Liên hệ: Tôi luôn thực hiện đúng các chính sách, chủ trương đổi mới của Đảng của Nhà nước để công tác giáo dục tại trường đạt hiệu quả cao.

2. Chuyên đề 2: Đánh giá sự phát triển của trẻ Mầm non

Đánh giá sự phát triển của trẻ Mầm non là quá trình thu thập thông tin một cách có hệ thống và phân tích, đối chiếu với mục tiêu của Chương trình giáo dục Mầm non, nhận định về sự phát triển của trẻ nhằm điều chỉnh kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp hơn. Chuyên đề này giúp tôi hiểu rõ hơn về ý nghĩa, mục tiêu, nội dung, nguyên tắc, phương pháp đánh giá trẻ. Sự đổi mới về đánh giá trẻ phù hợp với sự đổi mới của chương trình giáo dục Mầm non hiện nay. Sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi và xây dựng và sử dụng bộ công cụ theo dõi, đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non. Thông qua các bài tập thực hành tôi học cách xử lý kết quả và phân tích đánh giá sự phát triển của trẻ Mầm non trong phát triển chương trình nhà trường, nhóm lớp tôi đang dạy. Giúp tôi kiểm tra và quản lý hồ sơ của trẻ đầy đủ và khoa học.

2.1. Những vấn đề cơ bản về đánh giá sự phát triển của trẻ Mầm non

2.1.1. Mục tiêu đánh giá

Hiểu được những vấn đề cơ bản về đánh giá sự phát triển của trẻ trong chương trình GDMN. Có kỹ năng vận dụng các phương pháp, hình thức đánh giá và biết cách theo dõi sự phát triển của trẻ Mầm non và biết bộ chuẩn đánh giá dành cho trẻ 5 tuổi.

2.1.2. Nội dung đánh giá

Đánh giá sự phát triển của trẻ gồm các nội dung sau: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm và kỹ năng xã hội, thẩm mỹ.

2.1.3. Nguyên tắc đánh giá

Đánh giá trẻ trong hoạt động hàng, đánh giá sau chủ đề đối với mẫu giáo và theo tháng đối với nhà trẻ, đánh giá cuối độ tuổi (sau một năm học).

2.1.4. Phương pháp đánh giá

Quan sát, trò chuyện giao tiếp với trẻ, phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ, trao đổi với cha mẹ/người chăm sóc trẻ, sử dụng bài tập tình huống, phối hợp nhiều phương pháp.

2.2. Xu hướng đổi mới về đánh giá trẻ mầm non

Cùng với sự đổi mới chương trình GDMN, đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non cũng có nhiều đổi mới đối với nhà trẻ, đối với trẻ mẫu giáo, đánh giá sự phát triển của trẻ sau chủ đề giáo dục/giai đoạn, đánh giá sự phát triển cuối độ tuổi của trẻ, hồ sơ theo dõi đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non.

2.3. Hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi

– Khái niệm về chuẩn.

– Mục đích ban hành bộ chuẩn PTTENT.

– Cấu trúc và nội dung của chuẩn phát triển trẻ em … tuổi gồm … lĩnh vực, … chuẩn và …. chỉ số.

2.4. Xây dựng và sử dụng bộ công cụ theo dõi, đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non

– Mục tiêu

– Tài liệu hỗ trợ học tập

– Nội dung

2.5. Thực hành xử lý kết quả và phân tích đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non trong phát triển chương trình nhà trường

3. Chuyên đề 3: Luật trẻ em và hệ thống quản lý giáo dục

Chuyên đề này giúp chúng ta hiểu rõ hơn khái niệm luật trẻ em và hệ thống quản lý giáo dục, những vấn đề cơ bản về quyền và bổn phận của trẻ em, các quyền trẻ em trong Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, các quyền trẻ em trong Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, cách thức thực hiện Quyền trẻ em ở Việt Nam.

3.1. Những vấn đề cơ bản về quyền và bổn phận của trẻ em

3.1.1. Khái niệm quyền trẻ em

3. 1.1.1. Khái niệm trẻ em

3.1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em

3.1.2. Những quy định chung về quyền và bổn phận của trẻ em theo pháp luật Việt Nam

3.1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em

(Điều 5, Luật trẻ em quy định)

3.1.2.2. Các hành vi bị nghiêm cấm

(Điều 6, Luật trẻ em quy định)

3.1.2.3. Nguồn lực bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em

(Điều 7, Luật trẻ em quy định)

3.1.3. Một số quyền cơ bản của trẻ em

1. Quyền sống (Điều 12)

2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch (Điều 13)

3. Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 14)

4. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 15)

5. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu (Điều 16)

6. Quyền vui chơi, giải trí (Điều 17)

7. Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc (Điều 18)

8. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 19)

9. Quyền về tài sản (Điều 20)

10. Quyền bí mật đời sống riêng tư (Điều 21)

11. Quyền được sống chung với cha, mẹ (Điều 22)

12. Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ (Điều 23)

13. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi (Điều 24)

14. Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục (Điều 25)

15. Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động (Điều 26)

16. Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc (Điều 27)

17. Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt (Điều 28)

18. Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy (Điều 29)

19. Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính (Điều 30)

20. Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang (Điều 31)

21. Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 32)

22. Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội (Điều 33)

23. Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp (Điều 34)

24. Quyền của trẻ em khuyết tật (Điều 35)

25. Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn (Điều 36)

3.1.4. Bổn phận của trẻ em

3.1.4.1. Bổn phận của trẻ em đối với gia đình (Điều 37)

3.1.4.2. Bổn phận của trẻ em đối với nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác 12 (Điều 38)

3.1.4.3. Bổn phận của trẻ em đối với cộng đồng, xã hội (Điều 39)

3.1.4.4. Bổn phận của trẻ em đối với quê hương, đất nước (Điều 40) 3.1.4.5. Bổn phận của trẻ em với bản thân (Điều 41)

……..

Bài thu hoạch thăng hạng giáo viên Mầm non hạng III – Mẫu 4

Câu hỏi

Câu 1: Thế nào là môi trường tâm lý-xã hội trong trường mầm non? Phân tích những đặc trưng cơ bản của môi trường tâm lý-xã hội trong trường mầm non?

Câu 2: Phân tích môi trường tâm lý-xã hội tại lớp ở trường mầm non nơi học viên đang công tác.

Trả lời

Câu 1

1.1. Khái niệm môi trường tâm lý – xã hội

Môi trường tâm lí – xã hội trong trường mầm non là môi trường được tạo dựng trên cơ sở bầu không khí sư phạm trong nhà trường, mối quan hệ tác động qua lại giữa người lớn với trẻ (giáo viên mầm non, cán bộ công nhân viên trong trường, phụ huynh, khách), người lớn với người lớn, trẻ với trẻ.

1.2. Những đặc trưng của môi trường tâm lí – xã hội trong giáo dục trẻ mầm non

Trẻ mầm non đang trong giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách. Sự phát triển của trẻ được quyết định bởi một tổ hợp các điều kiện là: đặc điểm phát triển cơ thể trẻ, điều kiện sống, mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh, mức độ tích cực hoạt động của bản thân trẻ. Trẻ chỉ có thể lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội qua sự tiếp xúc với người lớn. Việc tạo nên bầu không khí tâm lý xã hội dựa trên các giá trị trong xây dựng môi trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hiệu quả giáo dục vì nó đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của trẻ. Theo đó, môi trường nhà trường cần được thiết lập trên nền tảng các giá trị. Kết quả nghiên cứu của Unesco trong chương trình giáo dục giá trị sống toàn cầu, khi các nhà giáo dục đặt câu hỏi trẻ em cần được sống trong môi trường như thế nào, câu trả lời là:

  • Được an toàn
  • Được có giá trị
  • Được yêu thương
  • Được hiểu
  • Được tôn trọng.

Môi trường nhà trường thân thiện, trong đó, các mối quan hệ của giáo viên với trẻ, trẻ với trẻ được dựa trên nền tảng của các giá trị như: tin tưởng, cởi mở, tôn trọng, đồng cảm, chia sẻ, không bạo lực, không có sự kì thị sẽ giúp trẻ phát huy tối đa tiềm năng của mình.

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Hoạt động sư phạm của giáo viên giúp trẻ em phát triển toàn diện. Bầu không khí sư phạm, mối quan hệ của người lớn với trẻ, trẻ với trẻ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tác động sư phạm. Xây dựng một môi trường tâm lí – xã hội với bầu không khí cơ sự thấu hiểu lẫn nhau để tất cả mọi người đều cảm nhận được tình yêu thương, thấy mình có giá trị, được tôn trọng và an toàn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của trẻ cũng như sự thành công của nhà trường. Một môi trường lấy trẻ làm trung tâm mà trong đó có các mối quan hệ dựa trên lòng tin cậy, sự quan tâm và tôn trọng sẽ khơi dậy động cơ tốt đẹp, sự sáng tạo tự nhiên và gia tăng sự hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau. Sống trong môi trường tâm lí – xã hội lành mạnh, có sự khuyến khích, ủng hộ, quan tâm, trẻ có cơ hội phát huy tối đa tiềm năng của mình. Mọi hình thức kiểm soát bằng cách đe dọa, trừng phạt, gây sợ hãi, xấu hổ chỉ khiến trẻ cảm thấy không phù hợp, ngượng ngùng và bất an.

Trước khi đến trường mầm non, trẻ được sống trong môi trường gia đình, được chăm sóc, dạy dỗ bằng tình cảm yêu thương, ruột thịt. Điều này không có được ở trường mầm non. Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ của trường mầm non là nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em nhằm giúp trẻ em hình thành những yếu tố ban đầu của nhân cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một, phát huy hết những tiềm năng đang nảy nở ở trẻ thì nhà trường cần xây dựng môi trường tâm lí – xã hội mang tính chất của môi trường gia đình.

Môi trường tâm lí – xã hội trong trường mầm non có một số đặc trưng sau:

Thứ nhất, đây là môi trường ẩn, không sờ thấy như môi trường vật chất, nhưng lại dễ dàng cảm nhận được vì đó là không gian chứa đầy cảm xúc. Trong môi trường, trẻ tham gia nhiều hoạt động khác nhau, rơi vào các tình huống khác nhau, với các mối quan hệ khác nhau và đó cũng là bấy nhiêu lần tạo nên các cung bậc cảm xúc đa dạng, đối khi đối lập. Do vậy, nếu giáo viên không có khả năng quan sát để nhận biết và giúp trẻ vượt qua những khó khăn khi rơi vào các trạng thái cảm xúc tiêu cực cũng như sẵn sàng chia sẻ khi trẻ có tâm trạng vui vẻ, phấn khởi thì sẽ không thể tạo dấu ấn cảm xúc tích cực trong môi trường được.

Thứ hai, môi trường tương tác đa chiều, thể hiện các mối quan hệ xã hội:

– Tương tác giữa trẻ với trẻ: mỗi trẻ có nhu cầu, hứng thú, sở thích, kinh nghiệm và khả năng khác nhau; xuất thân từ các gia đình có nền tảng kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, phong tục, tập quán, cách giáo dục khác nhau… Điều này thể hiện sự phát triển cá nhân và xã hội khác nhau ở trẻ và có ảnh hưởng đến cách thức hoạt động, giao tiếp của chúng.

– Tương tác giữa trẻ với giáo viên: sự khác biệt về nhận thức, kinh nghiệm, khả năng… giữa người lớn và trẻ em có thể dẫn đến các xung đột về nhận thức nếu người lớn không có kiến thức sâu sắc về trẻ, về sự phát triển, về việc trẻ học, chơi, về nhu cầu hứng thú của chúng. Những hạn chế về nhận thức, kinh nghiệm của trẻ về người lớn cũng làm cho trẻ không hiểu về người lớn và qui cho người lớn không yêu thương chúng ghét bỏ chúng.

– Tương tác giữa giáo viên – giáo viên – cán bộ, nhân viên của nhà trường. Trong môi trường giáo dục ở trường mầm non luôn diễn ra sự tương tác giữa các cán bộ, giáo viên. Nếu mối quan hệ giữa họ mang tính hợp tác, xây dựng, luôn quan tâm đến nhau, đến việc giáo dục trẻ và luôn làm gương cho trẻ trong mọi cử chỉ, hành động, lời nói sẽ có tác động tốt đến trẻ, đến giáo viên, tạo ra bầu không khí thân thiện, cởi mở trong môi trường giáo dục.

– Tương tác giữa giáo viên – phụ huynh – trẻ: Phụ huynh cũng là đối tượng tạo nên tương tác đa chiều trong môi trường giáo dục. Mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh được xây dựng trên tinh thần cởi mở, tôn trọng lẫn nhau sẽ có tác động trực tiếp đến trẻ. Sự thoải mái của cả giáo viên và phụ huynh sau các cuộc tiếp xúc có ảnh hưởng đến tâm lí của họ, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ.

Thứ ba, môi trường được điều khiển bởi các qui tắc xã hội. Các qui tắc hành vi trong ứng xử giữa trẻ với nhau, giữa giáo viên với trẻ và với môi trường vật chất phải do chính những người tham gia xây dựng nên và được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, tự giác, bình đẳng trong quyền hạn và trách nhiệm đối với bản thân, nhóm, tập thể. Khi các qui tắc ứng xử này bị phá vỡ sẽ tạo ra bầu không khí không lành mạnh do vậy cần phải có cam kết, thỏa thuận của những người tham gia. Điều này có nghĩa rằng, không nên đề ra các qui định trước buộc trẻ phải tuân theo mà hãy để cho trẻ cùng trao đổi, cùng quyết định nên đưa ra các nội qui qui định nào trong quá trình hoạt động và ứng xử với mọi người để đạt kết quả hoạt động cao nhất.

Thứ tư, đây là môi trường sống động. Môi trường nơi diễn ra hoạt động của trẻ phải trở thành môi trường sống động với các tương tác tích cực của những người tham gia. Điều này có nghĩa là môi trường vật chất vốn tĩnh tại nhưng khi có mặt của trẻ thì bỗng trở nên sống động, có thể kích thích khả năng chủ động, độc lập của trẻ, khuyến khích sự hợp tác giữa trẻ với nhau và với giáo viên hay trở thành nơi chuyển tải các thông về tình yêu, cái đẹp và sự gắn bó. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của giáo viên trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ giúp đỡ, điều khiển các mối quan hệ của trẻ.

Câu 2: Phân tích môi trường tâm lý-xã hội tại lớp ở trường mầm non nơi học viên đang công tác.

Nhận thức đúng đắn về môi trường tâm lý xã hội trong giáo dục trẻ ở trường mầm non. Tôi có quan niệm đúng về đối tượng giáo dục để quyết định thái độ và phương pháp giáo dục. Luôn coi trẻ là chủ thể của quá trình giáo dục để tạo mọi cơ hội cho sự chủ động, độc lập, tích cực ở trẻ, đồng thời phải quan tâm, tôn trọng và thương yêu trẻ như con em mình, luôn đi sâu tìm hiểu thế giới nội tâm ở trẻ, hiểu được nguyện vọng, yêu cầu, hứng thú, say mê của trẻ.

Hiện nay tôi đang xây dựng môi trường đáp ứng nhu cầu hoạt động của trẻ. Khi tôi biết rõ trẻ đang nghĩ gì và làm như thế nào sẽ giúp trẻ xây dựng được ý tưởng hoạt động. Bản thân là tổ trưởng chuyên môn dành thời gian để quan sát hành vi của trẻ. Chính sự quan sát này là động cơ thúc đẩy trẻ hoạt động tích cực vì muốn được cô khen chứ không phải là khẳng định bản thân. Nhờ xây dựng được môi trường tâm lý xã hội mà đáp ứng được nhu cầu hoạt động của trẻ. Gián tiếp cho trẻ thấy rằng giáo viên rất quan tâm đến trẻ. Trực tiếp thúc đẩy trẻ tiếp tục hoạt động theo cách chúng đang thực hiện.

Môi trường tâm lí – xã hội tại lớp trong trường mầm non tôi đang công tác như sau:

1. Tôi luôn đảm bảo an toàn cho trẻ mọi lúc mọi nơi

– Những khu vực không an toàn cho trẻ trong nhà trường như: cầu thang, lan can, bể bơi, nhà vệ sinh cần được theo dõi chặt chẽ khi cho trẻ hoạt động.

– Không để các vật nhỏ, sắc nhọn, nước nóng ở lớp mà không có sự kiểm soát.

– Dạy trẻ sử dụng an toàn các đồ dùng có thể gây nguy hiểm cho trẻ phù hợp với độ tuổi.

– Mỗi trẻ đi đâu, làm gì đều phải nằm trong tầm mắt của giáo viên để kịp thời giúp đỡ và ngăn ngừa mọi mối nguy hiểm cho trẻ.

2. Cô tạo môi trường có bầu không khí thân thiện, cởi mở và hỗ trợ trẻ

– Tạo cho trẻ sự tự tin vào bản thân bằng cách trang bị cho chúng những kĩ năng cần thiết.

– Thiết lập thói quen cho các hoạt động nhất định vào thời gian trong ngày của trẻ để trẻ được chủ động trong hoạt động của bản thân.

– Giáo viên xây dựng mối quan hệ tích cực trong lớp học (giữa giáo viên và trẻ, giữa trẻ với nhau) dựa trên cơ sở tôn trọng trẻ.

– Cho phép trẻ phản hồi, được nói chuyện, đặt câu hỏi với cô, với các bạn một cách tự nhiên trong các hoạt động.

– Giáo viên phải thể hiện là người luôn sẵn sàng lắng nghe và đáng tin cậy bằng sự nhẹ nhàng, ân cần, chu đáo, công bằng và thống nhất trong lời nói và việc làm của mình.

– Không định kiến với trẻ.

– Tạo cho trẻ sự thích thú, thoải mái, vui vẻ, cởi mở… bằng nhiều hình thức hoạt động hấp dẫn như kể chuyện vui, sử dụng yếu tố hài hước.

– Dành nhiều sự quan tâm hơn đến trẻ mới đi học, trẻ trong thời kì chuyển lớp.

3. Cô hỗ trợ việc hợp tác và học tập tích cực

– Tạo mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với nhau thông qua tổ chức các hoạt động tập thể hấp dẫn.

– Chú trọng phát triển các kĩ năng xã hội trong các hoạt động nhóm (chờ đến lượt, phân công, hợp tác chia sẻ, biết tôn trọng bạn, giải quyết xung đột, biết kiềm chế).

– Không can thiệp quá nhiều vào quá trình trẻ chơi, nếu không cần thiết (giáo viên quan sát, khơi gợi, chỉ hướng dẫn trẻ khi cần thiết).

– Tôn trọng sự phát triển tự nhiên, đặc điểm tâm lí lứa tuổi, đặc điểm cá nhân, chấp nhận trẻ học bằng cách Thử – Sai. Cho phép trẻ được làm sai trước khi làm đúng.

– Động viên trẻ lạc quan, tin vào bản thân (động viên trẻ bằng lời nói: “Không sao đâu”, “Làm lại nào”, “Con sắp làm được rồi”, “Cô thấy tốt hơn rồi đấy” nếu trẻ gặp khó khăn hoặc thất bại).

– Kiên nhẫn với trẻ: tránh thúc ép, gây căng thẳng khi luyện tập các kĩ năng cho trẻ, chờ đợi phản hồi của trẻ.

– Chấp nhận sự khác biệt: tôn trọng ý kiến cá nhân, nhu cầu, sở thích, khả năng của trẻ. Trong quá trình trao đổi ý kiến, tránh áp đặt để dần hình thành ở trẻ thói quen suy nghĩ độc lập.

– Tổ chức các hoạt động thường niên trong năm và khuyến khích sự tham gia tối đa của trẻ.

4. Không sử dụng hình phạt và bạo lực thể xác (về mặt thể chất) và các hành vi doạ nạt, quấy rối và phân biệt đối xử (về một tinh thần)

– Giáo viên luôn nhận thức được những hình phạt, hành vi doạ dẫm, bạo lực không những không đem lại hiệu quả mà còn gây tác hại đến thể chất và tâm lí của trẻ. Tôi hiểu rõ quyền và nghĩa vụ trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, từ đó xác định việc dùng bạo lực hay lời lẽ xúc phạm trẻ là vi phạm luật, vi phạm quyền trẻ em.

– Trẻ nhận thức được quyền và nghĩa vụ của bản thân. Trẻ hiểu bất kể hành động, lời lẽ xúc phạm nào đến trẻ khiến trẻ bị tổn thương đều không được chấp nhận, trẻ cần nói ngay với cha mẹ hoặc cô giáo để được giúp đỡ. Trẻ chơi tôn trọng nhau, chia sẻ và giúp đỡ nhau, biết cách giải quyết mâu thuẫn bằng thỏa thuận, thương thuyết chứ không dùng vũ lực. Trẻ chơi hoà đồng, không phân biệt đối xử với bạn, không cô lập bạn.

5. Khuyến khích và ủng hộ các hoạt động sáng tạo của trẻ

– Không cấm đoán trẻ, chỉ cấm đoán khi không an toàn. Hạn chế ra mệnh lệnh, tăng cường khích lệ. Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ và giúp đỡ nhau tuỳ theo khả năng.

– Khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự tin diễn đạt bằng lời nói.

– Hướng dẫn trẻ trở nên thoải mái, tự tin trước đám đông (qua các hoạt động trình diễn trên sân khấu, trước bạn học và trước người lạ).

– Cẩn trọng trong việc đánh giá trẻ. Nên đánh giá sự tiến bộ của mỗi trẻ so với bản thân, và đối chiếu với yêu cầu chung của lứa tuổi, tránh việc so sánh trẻ với nhau. Luôn nhìn nhận, khen ngợi mọi tiến bộ lớn, nhỏ của trẻ, đặc biệt quan tâm tới sự tiến bộ của những trẻ chậm hoặc ít nghe lời.

– Thường xuyên lấy ý tưởng dạy học từ trẻ. Tổ chức cho trẻ tự làm đồ chơi, thậm chí đồ dùng dạy học và cho trẻ tích cực tham gia vào việc tạo dựng môi trường lớp học.

– Cân bằng giữa hoạt động tự do và hoạt động giáo dục có chủ đích.

6. Tạo cơ hội cho trẻ bình đẳng và được tự quyết định

– Không phân biệt, thiên vị trẻ giỏi và kém, giàu và nghèo.

– Dạy trẻ nhận thức rõ về khả năng và vai trò của mình phù hợp với lứa tuổi,

giới tính.

– Tạo cơ hội cho mọi trẻ như nhau.

– Quan tâm đến trẻ có nhu cầu đặc biệt, trẻ chậm phát triển.

7. Kết nối trường học và gia đình thông qua sự tham gia của cha mẹ

– Giáo viên và phụ huynh kịp thời trao đổi những dấu hiệu bất thường về mặt thể chất và tâm lí của con.

– Đa dạng hoá các hình thức trao đổi thông tin giữa nhà trường và gia đình: sổ liên lạc, báo cáo học tập hoặc họp phụ huynh.

– Kêu gọi sự tham gia của phụ huynh trong các hoạt động của trẻ ở nhà trường.

– Phụ huynh được đóng góp ý kiến để xây dựng nhà trường tốt hơn, được tham gia vào quá trình giám sát, phát hiện những sai phạm, đặc biệt là hành vi xúc phạm đến trẻ.

8. Cung cấp dịch vụ hỗ trợ trẻ, cha mẹ và giáo viên

– Các dịch vụ hỗ trợ trẻ và cha mẹ như: đón sớm, trả muộn, tắm cho bé, trông trẻ tại nhà, học miễn phí trong thời gian đầu trẻ làm quen trường lớp, giảm học phí cho hộ nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tư vấn dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, tâm lí…

– Các dịch vụ/chính sách hỗ trợ giáo viên: trả lương theo năng lực, tăng lương thưởng cho giáo viên giỏi, có nhiều đóng góp cho nhà trường, chế độ thai sản, thăm hỏi khi đau ốm, việc hiếu – hỉ của người thân…

– Tạo mối quan hệ hợp tác, bình đẳng, mang tính xây dựng giữa cán bộ quản lí và giáo viên, giữa giáo viên với nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau, thi đua cạnh tranh lành mạnh.

– Xây dựng văn hoá giao tiếp lịch sự, tôn trọng nhau trong nhà trường từ việc xây dựng nội quy, và nghiêm túc thực hiện nội quy đó.

……………

Tiêu chuẩn Giáo viên mầm non hạng III – Mã số V.07.02.26

1. Nhiệm vụ

– Thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo kế hoạch giáo dục của nhà trường và tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nhóm, lớp được phân công phụ trách theo Chương trình giáo dục mầm non; thực hiện công tác giáo dục hòa nhập và quyền trẻ em;

– Trau dồi đạo đức nghề nghiệp; gương mẫu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em;

– Rèn luyện sức khỏe; hoàn thành các khóa học, các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các hoạt động chuyên môn; bảo quản và sử dụng thiết bị giáo dục được giao;

– Phối hợp với cha mẹ hoặc người giám hộ trẻ em và cộng đồng trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em;

– Thực hiện nghĩa vụ của công dân, các quy định của pháp luật, ngành Giáo dục, nhà trường và địa phương;

– Thực hiện các nhiệm vụ khác do hiệu trưởng phân công.

2. Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp

– Chấp hành các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của ngành và địa phương về giáo dục mầm non;

– Yêu nghề, thương yêu trẻ em; kiên nhẫn, biết kiểm soát cảm xúc; có tinh thần trách nhiệm cao; có kiến thức, kỹ năng cần thiết; có khả năng sư phạm phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ;

– Thường xuyên trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; đoàn kết, tương trợ, hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp;

– Thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nhà giáo; quy định về hành vi, ứng xử và trang phục.

3. Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng

– Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm giáo dục mầm non trở lên;

– Có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III (đối với giáo viên mầm non mới được tuyển dụng vào giáo viên mầm non hạng III thì phải có chứng chỉ trong thời gian 36 tháng kể từ ngày được tuyển dụng).

4. Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ

– Nắm được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định và yêu cầu của ngành, địa phương về giáo dục mầm non và triển khai thực hiện vào nhiệm vụ được giao;

– Thực hiện đúng chương trình giáo dục mầm non;

– Biết phối hợp với đồng nghiệp, cha mẹ trẻ em và cộng đồng trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em;

– Biết quản lý, sử dụng, bảo quản và giữ gìn có hiệu quả tài sản cơ sở vật chất, thiết bị của nhóm/Lớp, trường;

– Có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên mầm non hạng III và có khả năng sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số trong một số nhiệm vụ cụ thể được giao.

Tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết