Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị 2023 – HoaTieu.vn

Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị 2023 được viết sau khóa học bồi dưỡng chính trị và nêu được tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tại địa phương. Mời các bạn tham khảo cùng HoaTieu.vn.

Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị là mẫu bài thu hoạch mỗi học viên phải nộp khi chương trình bồi dưỡng đào tạo trình độ trung cấp lý luận chính trị kết thúc. Việc nghiên cứu và làm bài thu hoạch này giúp cho mỗi học viên có thể nâng cao khả năng rèn luyện, vận dụng được những lý thuyết đã học vào thực tiễn

Qua đó, nâng cao hiệu quả đánh giá, phân tích một vấn đề cụ thể, vận dụng và hoàn thành tốt công việc trên cương vị của bản thân.

Nội dung của bài trung cấp lý luận chính trị sẽ phụ thuộc vào nội dung nghiên cứu và yêu cầu của giáo viên, nhưng về cơ bản cần bám sát những nội dung dưới đây.

Phần 1: Nội dung những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Phần 2: Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng Sản, lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam và nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở.

Phần 3: Những vấn đề cơ bản về Hệ thống Chính Trị, về Nhà nước Pháp luật, và về thủ tục quản lý hành chính của nhà nước.

Phần 4: Nội dung đường lối, chính sách của Đảng của Nhà nước về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.

Phần 5: Về kỹ năng lãnh đạo, về quản lý và về nghiệp vụ công tác mặt trận tổ quốc và toàn thể nhân dân cấp cơ sở.

Để cho bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị có chất lượng mỗi cán bộ học viên nên chú ý kiến thức được giảng dạy trên lớp, vì những người giảng dạy là những tên tuổi hàng đầu trong các ban ngành nhà nước, những kiến thức họ giảng thông thường rất thực tế, khó tìm kiếm trên sách báo, tài liệu. Khi làm bài thu hoạch mà quan điểm đúng đắn và phù hợp với những gì đã được giảng dạy cũng sẽ được đánh giá cao. Vì đây là bài thu hoạch chính trị nên câu từ phải chuẩn chỉnh, không sử dụng những từ ngữ thô tục, sai sót, mang tính kích động.

Dưới đây là mẫu một số bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị HoaTieu xin gửi đến bạn đọc.

Thông qua những bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị, bài thu hoạch chính trị các bạn sẽ có thêm được gợi ý, ý tưởng để hoàn thành bài thu hoạch theo đúng yêu cầu. Sau khi kết thúc chương trình học, mỗi học viên của lớp trung cấp chính trị sẽ tự lựa chọn nội dung của bài thu hoạch, tự lựa chọn dựa trên yêu cầu chung của giáo viên hướng dẫn.

Bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị là mẫu bài thu hoạch được sử dụng khi chương trình bồi dưỡng đào tạo trình độ trung cấp lý luận chính trị kết thúc, đi nghiên cứu và viết bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị là một phần học quan trọng, giúp cho mỗi học viên có thể nâng cao khả năng rèn luyện, vận dụng được những lý luận vào thực tiễn, nâng cao hiệu quả đánh giá, phân tích một vấn đề cụ thể, góp phần vào việc thực hiện trong thực tế để hoàn thành tốt nguyên lý học đi đôi với hành.

Mời bạn đọc tham khảo mẫu bài thu hoạch lớp trung cấp chính trị dưới đây nhé:

BÀI THU HOẠCH
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CỦA XÃ …………………

A/- PHẦN MỞ ĐẦU

1/- Lý do chọn đề tài:

Trước những yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển giáo dục, thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì giáo dục càng có vai trò quan trọng hơn, đặc biệt là vai trò quản lý giáo dục của chính quyền cơ sở; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân; trong đó lực lượng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục là nồng cốt. Chính vì thế, giáo dục – đào tạo vừa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, với khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Phát triển giáo dục của địa phương là một yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách, Chất lượng giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, đây là một công việc không đơn giản, ngoài sự nổ lực của ngành giáo dục, đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các khâu có liên quan, trong đó khâu quản lý giáo dục đóng vai trò quan trọng đặc biệt là quản lý giáo dục ở cơ sở nơi trực tiếp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục và sự quan tâm đầu tư mạnh mẽ của nhà nước để giáo dục thật sự là quốc sách hàng đầu. Nếu quản lý giáo ở cơ sở yếu thì cho dù đường lối, chủ trưởng của cấp trên có đúng đắn tới đâu thì cũng không mang lại kết quả cao được.

Chính vì vậy Trong nên em chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục ở xã …………………, huyện Cù lao Dung”

2/- Mục đích chọn đề tài:

Dựa vào đề tài đã chọn qua đó tiến hành phân tích, đánh giá những mặt đạt được và hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp quản lý giáo dục, đào tạo phù hợp, cụ thể với địa phương trong thời gian sắp tới.

3/. Phạm vi nghiên cứu:

– Thời gian: ngày 27/03/20….

– Không gian: xã …………………

Đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục ở xã ………………… năm 20…. ” nội dung giới hạn trong phạm vi quản lý hoạt động giáo dục ở địa bàn xã ………………… năm 20…. và giải pháp trong thời gian sắp tới.

4/. Phương pháp:

Tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài, tiến hành phân tích nội dung, thống kê, đối chiếu với thực trạng quản lý giáo dục của xã …………………. Đồng thời tìm ra các giải pháp hiệu quả cho hoạt động giáo dục, để đưa chất lượng giáo dục của địa phương phát triển ngày càng tốt hơn nữa.

B/- PHẦN NỘI DUNG

I//- Cơ sở lý luận

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn lực con người càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục, phát triển kinh tế – xã hội.

Do xuất phát từ vai trò giáo dục – đào tạo là “quốc sách hàng đầu” đối với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Sự phát triển của đất nước nói chung và của các địa phương nói riêng. Việc nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước là một yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của sự nghiệp phát triển giáo dục. Hoạt động quản lý giáo dục của của cơ quan quản lý nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho giáo dục phát triển; làm cho hoạt động giáo dục đi vào trật tư kỷ cương; đảm bảo công bằng trong giáo dục, đào tạo thông qua hệ thống chính sách về giáo dục, đào tạo của nhà nước, tạo cơ hội cho mọi người tham gia vào quá trình phát triển giáo dục.

Giáo dục đào tạo nhằm phát triển toàn diện phẩm chất, nhân cách con người, tạo cơ sở nền tảng cho con người tham gia vào cuộc sống xã hội và lao động thực tiển. Việc nâng cao chất lượng chất lượng quản lý nhà nước đối với giáo dục là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sự nghiệp phát triển giáo dục

1/- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hoạt động giáo dục

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của thế giới, Người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới Việt Nam. Chỉ riêng về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã là một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn.

Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trước hết, phải nói đến tư tưởng giải phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ. Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng “tột bậc” của Người. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập; giải phóng họ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, dân trí của thế hệ những người Việt Nam yêu nước. Người đã tố cáo đanh thép chế độ thực dân Pháp trong việc “làm cho dân ngu để trị”, “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát”, đòi quyền “tự do học tập” và “thực hành giáo dục toàn dân”. Đồng thời, Người đã dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động – nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người.

Trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Người chỉ rõ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách mạng; giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu, thì mỗi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải “đa dạng hoá các loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm để tạo điều kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sỹ được đi học”. Khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa đất nước thoát khỏi cảnh yếu hèn – đó là con đường phát triển giáo dục. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ.

2/- Quan điểm của về Đảng và nhà nước về quản lý hoạt động giáo dục

Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng đã ra quyết định số 14-NQ TW về cải cách giáo dục với tư tưởng; Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.

Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội Đảng. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản đảm đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế – xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục: Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” . Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến. Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đó nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước như sau:

– Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển.

– Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước. Để thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào tạo ở nước ngoài vào năm. Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: “Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc” Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng – chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học.

Tăng cường phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình.

Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đào tạo với sử dụng.

Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn.

Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đó phổ cập xong trung học cơ sở.

Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.

– Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lên và cán bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học sinh người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn. Có chính sách bổ xung kiến thức cần thiết cho số học sinh dân tộc thiểu số đó tốt nghiệp trung học phổ thụng hoặc trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp để cóc em trở về địa phương tham gia công tác ở cơ sở.

Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII:

Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Trong nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào các cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tổ chức phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài.

Hai là, phát triển hợp lý quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội; vấn đề bổ túc tiểu học cho người lớn và phát triển giáo dục không chính quy; xõy dựng hệ thống trung tâm học tập cộng đồng.

Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là cơ hội học cao đẳng và đại học cho con em nông dân và các gia đình diện chính sách. Nhìn lại tình hình đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đó đạt được những thành tựu to lớn cú ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong khi Việt Nam bước vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thở nhiều nước đó vượt qua thời đại cách mạng công nghiệp đi vào thời đại cách mạng thông tin, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Khoảng cách về trình độ kinh tế, khoa học và công nghệ giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có xu hướng ngày càng mở rộng, mà một nguyên nhân quan trọng là do chất lượng trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ năng chuyên môn cũng bất cập của nguồn nguồn lực.

Trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi mà nước ta đó trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt về mọi mặt, mà chủ yếu là đấu tranh về trí tuệ của các quốc gia trên toàn cầu, sự yếu kém, bất cập và tụt hậu của giáo dục và đào tạo đang trở thành lực cản đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.

Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học – công nghệ.

Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội người học tập và học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”; Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hội, xã hội hóa”, chấn chỉnh nền giáo dục Việt Nam; Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.