Vướng mắc trong xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính. – Tin mới – Trang thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính được quy định tại Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

Việc xử phạt vi phạm hành chính thông thường được thực hiện trên cơ sở kiểm tra, phát hiện hành vi  vi phạm hành chính, lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, còn có những trường hợp xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện trên cơ sở chuyển hồ sơ vụ vi phạm từ cơ quan tiến hành tố tụng hình sự do không khởi tố vụ án hình sự, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án và hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính được quy định tại Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như sau:

“1. Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển các quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

2. Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến.

Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

3. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 30 ngày, kể từ ngày nhận được các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này kèm theo hồ sơ vụ vi phạm. Trong trường hợp cần xác minh thêm quy định tại khoản 2 Điều này thì thời hạn tối đa không quá 45 ngày”.

Pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể về việc chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện trên thực tế đang gặp phải một số vướng mắc, bất cập liên quan đến việc có phải lập biên bản vi phạm hành chính hay không. Trong nội dung bài viết này sẽ đề cập đến một số khó khăn vướng mắc trong việc xử phạt vi phạm hành chính đối với những vụ việc chuyển từ cơ quan tố tụng sang, từ đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn thi hành.

1. Khó khăn, vướng mắc:

Tong quá trình áp dụng quy định pháp luật để xử phạt vi phạm hành chính đối với những hồ sơ chuyển từ cơ quan tố tụng hình sự sang hiện nay đang còn nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất: Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với những vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển sang không cần phải lập biên bản vi phạm hành chính mà có thể ra quyết định xử phạt ngay. Quan điểm này xuất phát từ những căn cứ sau:

– Thứ nhất theo quy định tại Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012:

 “Điều 63. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính

1. Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển các quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

2. Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến.

Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

3. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 30 ngày, kể từ ngày nhận được các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này kèm theo hồ sơ vụ vi phạm. Trong trường hợp cần xác minh thêm quy định tại khoản 2 Điều này thì thời hạn tối đa không quá 45 ngày.”

Như vậy, khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển hồ sơ để xử phạt vi phạm hành chính thì chỉ phải chuyển các quyết định (quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án) kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử phạt đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà không phải chuyển biên bản vi phạm hành chính. Và việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến chứ không phải căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính từ ngày nhận được các quyết định kèm theo hồ sơ vụ vi phạm chứ không phải tính từ ngày lập biên bản như những trường hợp thông thường.

– Thứ hai, đây là vụ việc được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, không phải theo trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Các biên bản làm việc với đương sự được lập theo mẫu được pháp luật tố tụng hình sự quy định nên không có biên bản vi phạm hành chính. Những hồ sơ tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng lập cũng đã thể hiện đầy đủ các nội dung về đối tượng, hành vi vi phạm, tình tiết vụ vi phạm…, đã đảm bảo căn cứ để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Mặt khác, theo Mẫu quyết định số 01/QĐ-XPKLBB – mẫu quyết định xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản, ban hành kèm theo Thông tư số 07/2019/TT-BCA ngày 20/3/2019 quy định về các biểu mẫu sử dụng để xử phạt vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Công an nhân dân, có nội dung “Căn cứ hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến”. Tức là coi trường hợp xử phạt do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến là trường hợp xử phạt không lập biên bản và căn cứ ra quyết định là căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm. Mặc dù đây là thông tư áp dụng để xử phạt vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Công an nhân dân, tuy nhiên cũng thể hiện quan điểm của Công an nhân dân trong trường hợp xử phạt vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến thì không phải lập biên bản vi phạm hành chính.

– Thứ ba, vụ việc được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Từ khi bắt đầu tiến hành điều tra đến khi kết thúc điều tra là một quá trình lâu dài, nếu sau khi kết thúc điều tra và có quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự mới tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính sẽ không bảo đảm tính “kịp thời” theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Quan điểm thứ hai: Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với những vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển sang không lập biên bản vi phạm hành chính là không phù hợp với quy định pháp luật, với lý do:

 -Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành năm 2012 quy định việc xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ…”; và quy định tại khoản 1 Điều 57: “Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 56 của Luật này”.

 Như vậy, theo các quy định nêu trên, trừ hai trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì các trường hợp khác khi ra quyết định xử phạt hành chính phải trên cơ sở biên bản vi phạm hành chính được lập với cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

– Thứ hai: Theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì biên bản vi phạm hành chính là một trong những nội dung chính của quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Nếu không có biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính không có căn cứ để ra quyết định xử phạt cũng như không xác định được hành vi vi phạm, mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt…

2. Đề xuất, kiến nghị

Về quan điểm của người viết xuất phát từ những quy định hiện hành của Luật Xử lý vi phạm hành chính và thực tế hoạt động nghiệp vụ của cơ quan tố tụng hình sự cho thấy những hồ sơ tài liệu do cơ quan tiến hành tố tụng lập đã thể hiện chi tiết, đầy đủ các nội dung về đối tượng, hành vi vi phạm, tình tiết vụ vi phạm…, đã đảm bảo căn cứ để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, thống nhất với quan điểm thứ nhất, khi xử phạt vi phạm hành chính đối với những vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển sang không cần phải lập biên bản vi phạm hành chính mà có thể ra quyết định xử phạt ngay, đồng thời để đảm bảo thống nhất trong nội dung các quy định pháp luật, đề xuất một số giải pháp sau:

Cần bổ sung khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng quy định trường hợp vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển sang cũng là một trường hợp áp dụng quy định xử phạt không lập biên bản vi phạm hành chính.

Cần bổ sung khoản 1 Điều 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng quy định một trong những nội dung của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là “quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án (nếu có).

Phong Nguyễn