Ví dụ về chức năng chính trị – xã hội của giáo dục

1. Giới thiệu 2. Chương I: Giáo Dục Học Là Một Khoa Học 2.1 Giáo Dục Là Một Hiện Tượng Xã Hội Đặc Biệt 2.1.1 Giáo Dục Là Một Hiện Tượng Xã Hội, Một Nhu Cầu Sống Còn 2.1.2 Những Chức Năng Xã Hội Của Giáo Dục 2.1.3 Tính Quy Định Của Xã Hội Đối Với Giáo Dục 2.2 Đối Tượng Nhiệm Vụ Và Phương Pháp Của Giáo Dục Học 2.2.1 Vài Nét Về Sự Phát Triển Của Giáo Dục Học 2.2.2 Đối Tượng Của Giáo Dục Học 2.2.3 Nhiệm Vụ Của Giáo Dục Học 2.2.4 Hệ Thống Các Ngành Của Giáo Dục 2.2.5 Quan Hệ Giữa Giáo Dục Học Và Các Khoa Học Khác 2.2.6 Một Số Khái Niệm Cơ Bản Của Giáo Dục Học 2.2.7 Các Phương Pháp Nghiên Cứu Giáo Dục Học 2.3 Giáo Dục Trên Bước Đường Đổi Mới 3. Chương II: Giáo Dục Và Sự Phát Triển Nhân Cách 3.1 Một Số Khái Niệm Về Nhân Cách Và Sự Phát Triển Nhân Cách 3.1.1 Khái Niệm Con Người 3.1.2 Khái Niệm Cá Nhân 3.1.3 Khái Niệm Nhân Cách 3.1.4 Khái Niệm Cá Thể – Cá Tính – Sự Phát Triển Nhân Cách 3.2 Các yếu tố ảnh hưởng phát triển nhân cách 3.2.1 Vai Trò Yếu Tố Bẩm Sinh Di Truyền 3.2.2 Vai Trò Của Môi Trường Sống 3.3 Vai Trò Của Giáo Dục 3.4 Đặc Điểm Phát Triển Nhân Cách Học Sinh Trung Học

Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục học đại cương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG 1. Giới thiệu 2. Chương I: Giáo Dục Học Là Một Khoa Học 2.1 Giáo Dục Là Một Hiện Tượng Xã Hội Đặc Biệt 2.1.1 Giáo Dục Là Một Hiện Tượng Xã Hội, Một Nhu Cầu Sống Còn 2.1.2 Những Chức Năng Xã Hội Của Giáo Dục 2.1.3 Tính Quy Định Của Xã Hội Đối Với Giáo Dục 2.2 Đối Tượng Nhiệm Vụ Và Phương Pháp Của Giáo Dục Học 2.2.1 Vài Nét Về Sự Phát Triển Của Giáo Dục Học 2.2.2 Đối Tượng Của Giáo Dục Học 2.2.3 Nhiệm Vụ Của Giáo Dục Học 2.2.4 Hệ Thống Các Ngành Của Giáo Dục 2.2.5 Quan Hệ Giữa Giáo Dục Học Và Các Khoa Học Khác 2.2.6 Một Số Khái Niệm Cơ Bản Của Giáo Dục Học 2.2.7 Các Phương Pháp Nghiên Cứu Giáo Dục Học 2.3 Giáo Dục Trên Bước Đường Đổi Mới 3. Chương II: Giáo Dục Và Sự Phát Triển Nhân Cách 3.1 Một Số Khái Niệm Về Nhân Cách Và Sự Phát Triển Nhân Cách 3.1.1 Khái Niệm Con Người 3.1.2 Khái Niệm Cá Nhân 3.1.3 Khái Niệm Nhân Cách 3.1.4 Khái Niệm Cá Thể – Cá Tính – Sự Phát Triển Nhân Cách 3.2 Các yếu tố ảnh hưởng phát triển nhân cách 3.2.1 Vai Trò Yếu Tố Bẩm Sinh Di Truyền 3.2.2 Vai Trò Của Môi Trường Sống 3.3 Vai Trò Của Giáo Dục 3.4 Đặc Điểm Phát Triển Nhân Cách Học Sinh Trung Học 4. Chương III: Mục Đích Và Nhiệm Vụ Giáo Dục 4.1 Mục Đích Giáo Dục 4.1.1 Khái Niệm Về Mục Đích Giáo Dục 4.1.2 Mục Đích Giáo Dục Tổng Quát 4.1.3 Mục Đích Giáo Dục Của Các Ngành Học 4.2 Những Nhiệm Vụ Giáo Dục Ở Nhà Trường 4.2 Những Nhiệm Vụ Giáo Dục Ở Nhà Trường nguồn bài viết:   2.1 Giáo Dục Học Là Một Khoa Học 2.1.1 Giáo Dục Là Một Hiện Tượng Xã Hội, Một Nhu Cầu Sống Còn Của Con Người 1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội. – Giáo dục được coi là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này nảy sinh, tồn tại, phát triển và tiến bộ cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người, trong đó nổi bật lên là việc các thế hệ đi trước truyền thụ lại các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm hoạt động xã hội nói chung cho các thế hệ sau. – Các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục học đã chứng minh rằng : Từ thời cổ xưa cho đến nay, khi nói đến giáo dục là người ta nói đến những tác động làm phát triển con người cả về thể chất lẫn tâm hồn tức là dạy dỗ, bảo ban, nuôi nấng, chăm sóc. Xã hội ngày càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng phong phú và việc truyền thụ kinh nghiệm ngày càng được chuyên môn hoá dần. Trong xã hội dần dần xuất hiện những nhà trí thức – nghề dạy học ra đời. – Như vậy về thực chất, nếu xét theo phương diện lịch sử, giáo dục là hiện tượng xà hội trong đó thế hệ trước truyền thụ cho thế hệ sau những kinh nghiệm lịch sử xã hội (chứa đựng những giá trị văn hoá của xã hội, kinh nghiệm xã hội bao gồm: Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, niềm tin, các thái độ Tức là các chuẩn mực, các phương thức và các phương tiện của các hoạt động và giao lưu của con người), thế hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội đó biến nó thành kinh nghiệm của bản thân, thành nhân cách của mình để có thể tham gia vào cuộc sống, tham gia vào hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động xã hội khác, cũng như các mối quan hệ xã hội. Nếu xét về phương diện xã hội thì giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữa người này và người kia. Trong quá trình lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch sử xã hội , nhân cách được hình thành và ngày càng phát triển đầy đủ hơn. Trong quá trình đó các thế hệ sau không chỉ tiếp thu, lưu trữ, giữ gìn mà còn phát triển gía trị văn hoá xã hội, do đó góp phần phát triển xã hội. Cho nên, sự kế tục các thế hệ – đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội. Có thể nói việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm đã được tích luỹ trong quá trình lịch sử phát triển của xã hội loài người là nét đặc trưng cơ bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội. Nó là nhu cầu sống còn của con người, là chức năng không thể thiếu được của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh là do nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Nhờ có giáo dục, các thế hệ đang lớn mới có thể tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động lao động sản xuất, các hoạt động xã hội khác cũng như các mối quan hệ xã hội. Nếu không có giáo dục sẽ không có sự tái sản xuất ra các hoạt động lao động, các hoạt động xã hội khác cũng như các mối quan hệ xã hội. Như vậy, chính giáo dục đã tái sản xuất ra xã hội loài người. – Các nhà giáo dục học đã xem giáo dục như là “quá trình xã hội hóa“ liên tục của con người. Đặc trưng của giáo dục được thể hiện ở chỗ : Được tổ chức và định hướng tỉ mỉ, được tiến hành trong các tổ chức được hình thành vì mục đích giáo dục con người, có những chuẩn mực được xác định một cách tương đối. Trong lịch sử loài người đã có nhiều kiểu giáo dục khác nhau phù hợp với từng thời kì lịch sử của xã hội loài người. Ở mỗi trình độ phát triển của một xã hội nhất định trong một giai đoạn lịch sử cụ thể bao giờ cũng có một nền giáo dục tương ứng, trong đó mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục đều thể hiện phản ánh tính quy định của các điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể đối với giáo dục. Vì vậy, giáo dục luôn mang tính phổ quát, tính nhân văn, phản ánh những gía trị văn hóa đạo đức thẩm mĩ chung nhất của nhân loại, nhưng xét một cách sâu sắc cụ thể thì giáo dục ở mỗi nước, mỗi dân tộc luôn chứa đựng những yếu tố truyền thống, mang bản sắc riêng. 2. Đặc điểm phổ biến của giáo dục là ở chổ giáo dục tồn tại trong bất cứ thời kì lịch sử nào của xã hội loài người. Trong bất cứ một xã hội nào, mục đích của giáo dục đều là chăm sóc, bồi dưỡng con người ở lứa tuổi đi học, là truyền thụ một cách có ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa – tinh thần của loài người và của dân tộc nhằm làm cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi mặt của cuộc sống góp phần phát triển xã hội. Vì vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, giáo dục mang tính phổ biến và tồn tại vĩnh viễn với xã hội loài người. 3. Giáo dục là hiện tượng riêng biệt của xã hội loài người. Hiện tượng giáo dục chỉ xẩy ra trong xã hội loài người chứ không thể có trong giới tự nhiên. Các nhà xã hội học và tâm lý học tư sản đã dựa vào sự khéo léo, tinh khôn của một số động vật như con ong xây tổ, con khỉ làm xiếchay đơn giản như mèo mẹ tha chuột về cho lũ mèo con vờn, chim con tập bay và tha rác làm tổ cùng chim lớn vv để cho rằng động vật cũng có giáo dục. Thực ra họ đã đánh đồng hiện tượng giáo dục của con người với hành động của động vật. Các nhà giáo dục học Mác Xít Không phủ nhận sự khôn khéo, tinh khôn của một số động vật. Theo họ đó chỉ là hành động bản năng của động vật dựa trên cơ chế lặp lại hành động của tổ tiên chúng. Về cơ bản, kinh nghiệm sống của động vật đã có sẵn. Ví dụ : Đã là mèo thì biết bắt chuột, đã là ong thợ thì biết xây tổ có những căn phòng hình lục lăng, vịt thì biết bơi vv Trong khi đó kinh nghiệm sống của con người như làm nhà, dệt vải, xẻ núi, lấp sông và đơn giảm như biết sử dụng đôi đũa để ăn cơm vvđều không có sẵn, mà đứa trẻ phải học mới biết. Giáo dục là một loại hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Chính giáo dục đã làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, phát triển khả năng của con người trong việc cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân nhằm làm cho cuộc sống của mình ngày càng tốt đẹp hơn mà ở động vật không thể có được. Giáo dục là đặc quyền của con người. nguồn bài viết:   2.1 Giáo Dục Học Là Một Khoa Học 2.1.2 Những Chức Năng Xã Hội Của Giáo Dục Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối với các quá trình xã hội xét về mặt xã hội học được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng xã hội của giáo dục : Chức năng kinh tế – sản xuất, chức năng – chính trị xã hội và chức năng tư tưởng – văn hoá. Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt. a.Chức năng kinh tế – sản xuất – Các nhà nghiên cứu kinh tế học giáo dục đã chỉ ra rằng : Khoa học – Giáo dục – Sản xuất là ba bộ phận hợp thành một cơ cấu thống nhất và trở thành nhân tố quyết định đối với kết quả của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng cường mối liên hệ giữa khoa học với sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng sản xuất trực tiếp mà phải thực hiện sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản xuất. Mắt xích quan trọng trong mối quan hệ này là quan hệ giữa giáo dục và sản xuất. – Lao động sản xuất dù có đơn giản đến đâu cũng cần phải có sự huấn luyện để người lao động biết lao động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng hiện đại càng cần phải có sự đầu tư vào việc huấn luyện nhiều hơn. – Hiệu quả của nền sản xuất vất chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển chung về mặt nhận thức và trình độ chuyên môn của người lao động. Trình độ học vấn và chuyên môn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến việc hoàn thiện công cụ lao động, biến lao động thành hoạt động sáng tạo. Cho nên, quan hệ giữa trình độ của người lao động với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ bản của nền sản xuất hiện đại. Trình độ chuyên môn của người lao động càng cao thì năng xuất lao động càng cao. K. Mác đã từng làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục với sản xuất trên nền tảng của sức lao động. Sức lao động xã hội, theo K. Mác chỉ tồn tại trong nhân cách sống của con người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất của con người cho nên giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất sức lao động xã hội. Sức lao động đó có thể là những thành phẩm như kỹ sư, công nhân vvhay bán thành phẩm như học sinh. – Giáo dục luôn luôn phải làm nhiệm vụ bù đắp kịp thời nhân lực thiết hụt (do nhiều nguyên nhân) trong sức sản xuất xã hội. Với sự giáo dục thường xuyên người lao động nhanh chóng thích ứng với thay đổi, phát triển mạnh và liên tục của nền sản xuất. Vì vậy có thể nói : Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho cho sản xuất, là thứ đầu tư khôn ngoan và có lợi nhất. Đây là chiến lược quan trọng của các nước phát triển và đang phát triển hiện nay. Tóm lại : Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi giáo dục phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ nhân lục lao động có trình độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của nền sản xuất đó. b. Chức năng chính trị – xã hội. – Chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội về mặt chính trị. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận của xã hội bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội, các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. – Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội nhằm góp phần biến đổi cấu trúc xã hội theo mục đích mong muốn. Giáo dục Xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, nghĩa là góp phần xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, làm cho các tầng lớp xã hội xích lại gần nhau bằng cách nâng cao trình độ văn hoá, nhận thức cho toàn thể nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn nghề nghiệp vv Chẳng hạn : Xã hội bao gồm các mối quan hệ xã hội như : Quan hệ sản xuất, quan hệ đạo đức, quan hệ pháp quyền vv Trong tất cả các mối quan hệ này đều chứa đựng quan hệ giáo dục. Ví dụ : Quan hệ đạo đức xã hội chủ nghĩa chứa đựng quan hệ giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa và được thúc đẩy bởi quan hệ này. – Giáo dục góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu xã hội : Giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình góp phần thực hiện mục tiêu về phát triển dân số của xã hội, giáo dục giới tính góp phần tiến tới đảm bảo sự bình đẳng nam nữ vv – Chính sách ưu tiên theo vùng trong chế độ tuyển sinh hiện nay nhằm góp phần đảm bảo nguồn nhân lực có trình độ cho các vùng ít có điều kiện phát triển kinh tế, xã hội : Như các vùng sâu, vùng cao, vv c. Chức năng tư tưởng – văn hoá. Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến toàn xã hội, xây dựng một trình độ văn hoá cho toàn dân. Giáo dục góp phần phát triển tư tưởng văn hoá bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho toàn xã hội. Với một nền giáo dục phổ thông tốt được phổ cập rộng rãi, sẽ nâng cao dân trí, làm xuất hiện và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Tóm lại : Giáo dục đã thực hiện chức năng của công cụ tái sản xuất sức lao động xã hội, cải biến cấu trúc xã hội, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá xã hội. Do đo,ù giáo dục đã đáp ứng những đòi hỏi phát triển của hình thái kinh tế xã hội về lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội và ý thức xã hội. Muốn thực hiện được các chức năng trên đòi hỏi giáo dục cần làm cho tất cả mọi thành viên của xã hội nâng cao về trình độ học vấn cũng như phát triển mọi mặt nhân cách, mọi người được chuẩn bị tốt cho cuộc sống của họ. Làm thoả mãn nhu cầu được học hành, được phát triển nhân cách của con người. Giáo dục là một phúc lợi, một quyền sống tinh thần, một lợi ích, một hạnh phúc cơ bản của mỗi thành viên trong xã hội. nguồn bài viết:   2.1.3 Tính Quy Định Của Xã Hội Đối Với Giáo Dục – Giáo dục luôn biến đổi không ngừng và bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể. Tính lịch sử cụ thể thể hiện: -Tương ứng với mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử xã hội là một nền giáo dục. Ví dụ: lịch sử sự phát triển của xã hội loài người đã trải qua 5 chế độ xã hội khác nhau và đã có 5 nền giáo dục tương ứng: Chế độ cộng sản nguyên thuỷ – giáo dục cộng sản nguyên thuỷ. Về phương pháp đặc trưng của giáo dục là phương pháp truyền kinh nghiệm qua thực tiễn tự phát. Chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ – giáo dục chiếm hữu nô lệ. Phương pháp dạy học chủ yếu là truyền kinh nghiệm bằng lời. Chế độ xã hội phong kiến – giáo dục phong kiến. Phương pháp dạy học giáo điều. Chế độ xã hội tư bản (xã hội tiền công nghiệp ) – giáo dục tư bản. Phương pháp giải thích minh hoạ Chế độ xã hội chủ nghĩa – giáo dục xã hội chủ nghĩa. Phương pháp dạy học tích cực. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi nước, mỗi dân tộc khác nhau, giáo dục một mặt mang tính phổ quát, tính nhân văn, phản ánh những giá trị văn hoá đạo đức thẩm mỹ chung nhất của nhân loại nhưng mặt khác giáo dục lại mang những nét khác nhau về truyền thống và bản sắc dân tộc. Ví dụ : Cũng là giáo dục Tiểu học : Ở Việt Nam, lào, Myama Là 5 năm; Mông Cổ, Ba lan chỉ có 3 năm; Tiệp, Hungari, Áo là 4 năm; Ấn Độ, Chi Lê là 8 năm ( Nhà trường hiện đại trên thế giới – Hoàng Đức Nhuận, Hà Nội 1995. ) – Ở mỗi nước, trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử khác nhau, giáo dục cũng khác nhau. Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, Giáo dục mầm non vào khỏang năm 1981 tuổi bắt đầu đi nhà trẻ là 2 tháng tuổi. Năm 1991 là 6 tháng tuổi, nhưng từ năm 1993 cho đến nay lại là 3 – 4 Tháng tuổi. Hoặc giáo dục phổ thông ở Việt Nam (miền Bắc) trước năm 1979 là 10 năm, từ năm 1979 là 12 năm. – Nguyên nhân của sự khác nhau đó là do giáo dục chịu sự quy định của các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và các quá trình xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá vvKhi các quá trình xã hội có sự biến đổi bắt nguồn từ những biến đổi về trình độ sức sản xuất xã hội và tính chất của quan hệ sản xuất xã hội, rồi kéo theo những biến đổi về chế độ chính trị, về cấu trúc xã hội và hệ tư tưởng xã hội thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo. Mác – Aêng Ghen đã từng nói “ Giáo dục là do quan hệ xã hội quyết định. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau “. Hồ Chủ Tịch nói : “Chế độ khác thì giáo dục cũng phải khác”. Lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường trên thế giới và trong nước đã khẳng định tính quy định của xã hội đối với giáo dục như là một tính quy luật quan trọng của sự phát triển giáo dục. Tóm lại : Mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội là mối quan hệ biện chứng, hữu cơ, trong đó xã hội quy định giáo dục và ngược lại đến lượt mình giáo dục lại là điều kiện, động lực để thúc đẩy xã hội phát triển về tất cả các mặt. nguồn bài viết:   2.2 Đối Tượng Nhiệm Vụ Và Phương Pháp Của Giáo Dục Học 2.2.1 Vài Nét Về Sự Phát Triển Của Giáo Dục Học a. Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã hội bình thường, trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã hội. Vào thời kỹ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như : Khổng Tử (551 – 479 TCN); Xôcrát (469 – 399 TCN); Arixtôt (384 – 322 TCN); Platôn (427 – 347 TCN). – Xôcơrát (469 – 399 TCN) : Trong đời, Xôcơrát là nhà giáo dục thực hành. Ông có quan niệm rất nổi tiếng : giáo dục phải giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự can đảm trong việc bảo vệ chân lí – Platôn (427 – 347 TCN) : là học trò của Xôcơrát, ông đã có công ghi lại và xuất bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát.. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan với đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Xét theo quan điểm lịch sử giáo dục, hệ thống giáo dục do Platôn mường tượng ra mang nặng quan điểm bất bình đẳng của xã hội nô lệ, nhưng ông đã khẳng định được vai trò tất yếu của giáo dục trong xã hội, tính quyết định của chính trị đối với giáo dục – Khổng Tử (551 – 479 TCN) : là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những người nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ để nắm vững vấn đề ; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong học tập, theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ông còn dùng phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế hàng ngày Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học, triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác phẩm triết học và khoa học nói chung b. Ơû phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh hưởng rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo dục nói riêng. Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập. Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần học. Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung hòa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn gốc nảy sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học. Đây cùng là cơ sở sâu xa của lối học vẹt. Đến thế kỷ XII – XIII ở Tây âu đã hình thành ba loại trường : Trường tu viện; trường của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bổn. Sau đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống giáo dục kỵ sĩ, với nội dung giáo dục “Bẩy đức tính của kỵ sĩ” : Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Aâu đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời. c. Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện, nhân loại bước vào thời đại phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất hiện, tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục tiến bộ : Vượt ra khỏi khuôân khổ giáo dục kinh viện – tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng con người cần được phát triển toàn diện. Chính bước quá độ từ ch