Vay không trả bị công ty tài chính đăng hình ảnh lên mạng thì làm thế nào?
Vay không trả bị công ty tài chính đăng hình ảnh lên mạng thì làm thế nào?
Hợp đồng vay tài sản là một dạng hợp đồng được ghi nhận trong pháp luật dân sự và xuất hiện rất nhiều trong thực tế đời sống. Hợp đồng vay tiền này có thể là vay giữa cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân với tổ chức tín dụng.
1. Luật sư tư vấn về hợp đồng vay tài sản
Bên cạnh hợp đồng vay tài sản giữa cá nhân với cá nhân thì hợp vay tiền giữa cá nhân với các tổ chức cho vay hoặc các tổ chức tín dụng cũng diễn ra khá phổ biến. Trong thời gian gần đây, hoạt động vay tiền tại các tổ chức tài chính không rõ nguồn gốc đặc biệt là hình thức vay qua mạng đang ngày càng phổ biến nhưng cũng kèm theo những hệ quả nghiêm trọng cho người vay. Bởi lẽ, khi người vay vi phạm về hợp đồng vay, bên cho vay sẽ thực hiện những hành vi gây ảnh hưởng đến cá nhân cũng như gia đình của người đi vay mà một trong các hành vi phổ biến đó là gọi điện yêu cầu hoàn trả khoản nợ và vấn đề đăng ảnh và thông tin cá nhân của người vay lên các trang mạng xã hội.
Trong thời gian gần đây, công ty Luật Minh Gia nhận được rất nhiều yêu cầu tư vấn của khách hàng liên quan đến các hành vi nêu trên. Do đó, lời khuyên cho khách hàng là trước khi thực hiện ký kết hợp đồng vay tài sản nên tìm hiểu kỹ về các loại hình cho vay này. Ngoài ra, nếu bạn đang vướng mắc về hợp đồng vay như đã nêu trên bạn có thể liên hệ với công ty Luật Minh Gia thông qua các hình thức như gửi Email tư vấn hoặc gọi tới số 1900.6169 để được chúng tôi hỗ trợ giải quyết vấn đề này theo quy định pháp luật.
2. Vay không trả bị công ty tài chính đăng hình ảnh lên mạng thì làm thế nào?
Nội dung tư vấn: Kính chào luật sư. Chắc cho em xin hỏi 1 chuyện có liên quan đến luật hình sự. Hiện nay gia đình em đang gặp chuyện có liên quan đến việc đăng tải hình ảnh lên trang mạng xã hội. Do thời gian trước, em trai của em có vay Công ty tài chính, với hình thức vay tính chấp. Tuy nhiên trong thời gian khoảng 2 năm nay, gia đình không liên lạc được với nó. Hiện nay nó lại không trả nợ Công ty tài chính, bên Công ty tài chính lấy hình ảnh của gia đình đăng lên trang mạng xã hội, để truy tìm đối tượng lỳ lợm, trốn nợ. Những người bị lấy hình ảnh chỉ là thành viên gia đình, không biết món vay của em trai. Nhưng bên Công ty tài chính lại lấy hình ảnh em trai của em sinh năm 1991. Mong luật sư giải đáp giúp em.
Vậy bên kia có phải vi phạm quyền cá nhân của những người liên quan không.
Nếu muốn kiện thì phải như thế nào. Với lại hình ảnh đó, gia đình chỉ nhận được từ bạn bè, thân thiết nên không xác định ai là người đăng tải, chỉ nhận được các cuộc gọi.
Em xin hết, cảm ơn luật sư!
Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Căn cứ thông tin bạn cung cấp, em trai của bạn có hợp đồng vay với công ty tài chính; tuy nhiên, do không trả được tiền theo hợp đồng vay ban đầu nên công ty tài chính đã sử dụng hình ảnh của em trai và gia đình bạn để đăng lên mạng xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến quyền của cá nhân về hình ảnh theo quy định tại Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 32. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
3. Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, nếu công ty tài chính sử dụng hình ảnh của em trai và gia đình bạn mà không được sự cho phép của gia đình bạn thì bạn có thể khởi kiện ra Tòa án yêu cầu công ty tài chính gỡ hình ảnh, cải chính thông tin, công khai xin lỗi và thực hiện bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra).
Trường hợp công ty tài chính đăng kèm theo hình ảnh là những lời lẽ nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của em trai bạn và các thành viên trong gia đình thì gia đình bạn có thể trình báo đến cơ quan điều tra công an quận/huyện nơi công ty đó có trụ sở để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
…
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
…”
Ngoài ra, công ty tài chính còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015:
“Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Đối với vấn đề bồi thường, các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.