Văn hóa, văn minh, văn hiến – KHÁI LUẬN VỀ VĂN HOÁ GS. Trần Ngọc Thêm Ngay từ thuở lọt lòng, chúng – Studocu

KHÁI LUẬN VỀ VĂN HOÁ

GS.TSKH. T

rần Ngọc Thêm

Ngay từ thuở lọt lòng, chúng ta đã đ

ắm mình trong chất men văn hoá: từ lời ru củ

a

mẹ, bài học của cha, trò chơ

i của chị… cho đến tiếng gọi đò bên sông,

tiếng võng đưa kẽo

kẹt lúc trưa hè, tiếng chuông buông khi c

hiều xuống… – tất cả, tất cả nhữn

g sự kiện đó,

những ấn tượng đó, những âm thanh đó, nhữn

g hình ảnh đó… đều thuộc về văn hóa. Cái

tinh thần như tư tưởng, ngôn ngữ… là văn hoá; c

ái vật chất như ăn, ở, mặc… cũng l

à văn

hoá. Chính văn hoá đã nuôi chúng ta l

ớn, dạy chúng ta khôn. Người ta nói: văn hóa

ẩm

thực, văn hoá trang phục, văn hoá ứ

ng xử, văn hoá tiêu dùng, văn hoá kinh do

anh, văn

hóa chính trị, văn hoá Đông Sơn, văn hoá

Hoà Bình, văn hoá rìu vai… Từ “v

ăn hoá” có biết

bao nhiêu là nghĩa, nó được dùng để ch

ỉ những khái niệm có nội hàm h

ết sức khác nhau.

T

uy

được

dùng

theo

nhiều

n

ghĩa

khác

nhau,

nhưng

suy

cho

cùng,

khái

niệm

văn

hoá bao

giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu

chính: theo nghĩa hẹp v

à theo nghĩa rộng.

Theo

nghĩa

hẹp,

văn

hoá

được

giớ

i

hạn

theo

chiều

sâu

hoặc

theo

chiều

rộng,

theo

không

gian

hoặc

theo

thời

gian…

Giới

hạn

theo

chiều

sâu,

văn

hóa

được

hiểu

những

giá

trị

tinh

hoa

của nó

(nếp

sống văn

hoá, văn

hoá nghệ

thuật…). Giới

hạn t

heo chiều

rộng, văn

hoá được

dùng

để

chỉ những

giá

trị

trong từng

lĩnh

vực

(văn h

oá giao

tiếp,

văn

hoá kinh

doanh…).

Giới

hạn theo

không

gian,

văn

hoá

được

dùng

để

chỉ

những

giá

trị

đặc

thù

của

từng

vùng

(văn

hoá

Tây

Nguyên,

văn

hoá

Nam

Bộ…).

Giới

hạn

theo

thời

gian,

văn

hoá

được

dùng

để

chỉ

những

giá

trị

trong từng giai đoạn (văn hoá Ho

à Bình, văn hoá Đông Sơn…)…

Theo nghĩa

rộng, văn

hoá

thường được xe

m là

bao g

ồm tất

cả những

gì do

con người

sáng

tạo

ra.

Năm

1940,

Hồ

Chí

Minh

đã

viết:

“Vì

lẽ

sinh

tồn

ng

như

mục

đích

của

cuộc

sống,

loài

người

mới

sáng

tạo

phát

minh

ra

ngôn

ngữ,

chữ

viết,

đạo

đức,

pháp

luật,

khoa

học,

tôn

giáo,

văn học,

nghệ thuật,

những

công cụ

cho sinh

hoạt

hằng ngày về

ăn,

mặc, ở

các phương

thức

sử

d

ụng.

T

oàn

b

những

sáng

tạo

phát

minh

đó

t

ức

văn

hóa.

Văn

hóa

sự

tổng

h

ợp

của

mọi

phương

thức

sinh

hoạt

cùng

với

biểu

hiện

của

loài

người

đã

sản

sinh

ra

nhằm

thích

ứng

những

nhu

cầu

đời

sống

đòi

hỏi

của

sự

sinh

tồn”

[Hồ

Chí

Minh

1995:

431].

Federico

Mayor

,

Tổng

giám

đốc

UNESCO,

cho

biết:

“Đối

với

một

số

n

gười,

văn

hóa

chỉ

bao

gồm

n

hững

kiệt

tác

tuyệt

vờ

i

trong

các

lĩnh

vực

duy

sáng

tạo;

đối

với

những

người

khác,

văn

hóa

bao

gồm

tất cả

những

làm

cho

dân tộc

này

khác

với

dân

tộc

khác,

từ

những

sản

phẩm

tinh

vi

hiện

đại nhất

cho đến tín

ngưỡng, phong tục

tập quán,

lối sống và

lao động.

Cách hiểu thứ

hai này

đã

được

cộng

đồng

quốc

tế

chấp

nhận

tại

Hội

nghị

liên

chính

p

hủ

về

các

chính

sách

văn

hoá

họp

năm 1970 tại V

enise” [UNESCO 1989: 5].

Chính với cách hiểu rộng này

, văn hoá đã trở thành đối tượng của

văn hoá học

(culturology

,

culture

studies,

science

of

culture)

khoa

học

n

ghiên

cứu

về

văn

hóa.

T

rong

lĩnh

vực

này

,

khởi

đầu

từ

định

nghĩa

của

E.B.T

ylor

trong

cuốn

Văn

hoá

nguyên

thuỷ

(Primitive

culture)

xuất

bản

London

năm

1871,

đến

nay

đã

rất

nhiều

định

nghĩa

khác

nhau.

Vào

năm

1952,

h

ai

nhà

nhân

học

ngư

ời

Mỹ

A.

Kroeber

C.

Kluckhohn

đã

viết

một

cuốn

sách

chuyên

bàn

về

các

định

nghĩa

văn

hóa

nhan

đề:

Văn

hóa

tổng

luận

phê

phán

các

quan

niệm

định

nghĩ

a

(Culture:

a

critical review of concepts a

nd definitions), trong đó đã dẫn

ra và phân tích 164

định nghĩa về văn

hoá.

T

rong

lần

xuất

bản

thứ

hai

của

cuốn

sách

này

,

số

định

nghĩa

văn

hoá

đã

tăng

lên

đến

trên

200. Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa về văn hóa khó mà biết

chính xác được: có người bảo

là 400, có người nói là 500, lại có

người quả quyết rằng chúng l

ên đến con số nghìn…

Sẽ

không

phải

xa

sự

thật,

n

ếu

i

rằng

bao

nhiêu

nhà

nghiên

cứu

văn

hóa

thì

bấy

nhiêu

đ

ịnh

nghĩa

về

văn

hoá.

Song,

lại

cũng

một

sự

thật

khác

số

lượng

định

nghĩa

văn

hoá

nh

iều

bao

nhiêu

đi

nữa

thì,

chung

qui

lại,

c

húng

vẫn

chỉ

xoay

quanh

một

số

khuynh

hướng cơ bản.

Xét theo cách thức thì ta th

ấy có hai loại – định nghĩa miê

u tả và định nghĩa nêu đặc trưng

.

Định

nghĩa

miêu

tả

liệt

các

thành

tố

của

văn

hoá,

dụ

như

theo

E.B.T

ylor

(1871),

văn

hoá

“một

phức

thể

bao

gồ

m

tri

thức,

tín

ngưỡng,

nghệ

thuật,

đạo

đức,

lu

ật

pháp,

tập

quán,

cùng mọi khả năng và thói que

n khác mà con người như một thành vi

ên của xã hội đã đạt được”.

T

rong loại định nghĩa

nêu đặc trưng thì có thể gặp

ba khuynh hướng lớn:

Khuynh

hướng

thứ

nhất

coi

văn

hóa

những

kết

quả (sản

phẩm)

nhất

định.

Đó

thể

những

giá

trị,

những

truyền

thống,

những

nếp

sống,

những

chuẩn

mực,

những

tưởng,

những

thiết

chế xã

hội

, những

b

iểu

trưng, ký

hiệu,

những

thông

tin…

một cộng

đồng

đã

sáng