Vai trò của văn hóa, văn nghệ trong công tác tư tưởng ở nước ta

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

Vai trò của văn hóa, văn nghệ trong công tác tư tưởng ở nước ta

A. Phần mở đầu

I. Tính cấp thiết của đề tài

Công tác tư tưởng là một bộ phận hữu cơ, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Để giữ vững và đảm bảo sự lãnh đạo đó, điều cốt lõi là lãnh đạo  về tư tưởng chính trị, trước hết và quan trọng nhất là tư tưởng chính trị. Để thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ chủ yếu đó, công tác tư tưởng phải đồng thời huy động và phát huy sức mạnh của các chức năng cơ bản: lý luận, giáo dục, nhận thức, đổi mới, phát triển nội dung, các phương thức hình thức tốt nhất, phù hợp nhất đến các đối tượng tác động của công tác tư tưởng. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hiệu quả của công tác tư tưởng là hiệu quả tổng hợp, tác động vào con người đồng thời cả lý trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc, tư duy và tâm hồn do tính chất đa dạng, phong phú của các mặt các loại hình, các binh chủng của hoạt động tư tưởng tạo nên. Điều đó có nghĩa là mỗi loại hình, mỗi binh chủng đó có những đặc trưng và ưu thế riêng, có phương thức đặc thù tác động đến con người. Đặc điểm này thể hiện rõ đối với loại hình văn hoá, văn học, nghệ thuật.

Hoạt động văn hoá với rất nhiều loại hình đa dạng của nó và hoạt động văn học, nghệ thuật – lĩnh vực đặc biệt nhậy cảm của văn hoá luôn giữ vị trí đặc biệt và làm phong phú, sinh động cho toàn bộ hoạt động của công tác tư tưởng.

Bằng cách riêng của mình, với sức mạnh độc đáo thông qua những đặc trưng khi nhận thức, thể hiện cuộc sống bằng tính cụ thể, trực quan, hình tượng và khả năng tác động đặc biệt vào tâm hồn, tình cảm, cảm xúc con người, văn hoá – văn nghệ được khẳng định là “binh chủng đặc biệt” trong công tác tư tưởng nhằm xây dựng và củng cố vững chắc  trận địa tư tưởng của Đảng. Đồng thời trực tiếp nuôi dưỡng, đào tạo con người mới, nhân cách kiểu mới với những phẩm chất cao đẹp và được phát triển toàn diện về trí, đức, thể mỹ. Hoạt động này đồng thời phải đáp ứng hai đòi hỏi lớn: một mặt thoả mãn và nâng cao tinh thần – văn hoá của nhân dân, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi mặt hoạt động của con người và xã hội, sáng tạo được nhiều sản phẩm, công trình có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Mặt khác, thông qua đó, xây đắp thế giới tinh thần, trí tuệ, tình cảm của con người. Chức năng tư tưởng của văn hoá – văn nghệ thể hiện sâu sắc đặc điểm này.

Có sản phẩm văn hoá – văn nghệ tốt và biết sử dụng các sản phẩm đó một cách phù hợp nhất cho mục tiêu của công tác tư tưởng là con đường và giải pháp phát huy vai trò và ưu thế của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng. Các sản phẩm của văn hoá – văn nghệ luôn luôn là thành tố hữu cơ, luôn luôn có mặt trong mọi hoạt động tuyên truyền, cổ động, giáo dục. Thiếu nó hoặc không biết sử dụng nó, các mặt hoạt động này trong công tác tư tưởng sẽ trở nên khô khan, nghèo nàn, làm giảm sức thuyết phục và khả năng đi vào lòng người.

Chính vì vai trò to lớn như vậy của văn hoá – văn nghệ đối với công tác tư tưởng nên sinh viên đã chọn đề tài: Phát huy vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay; để làm đề tài tiểu luận cho môn Nguyên lý công tác tư tưởng học phần II.

II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục đích của đề tài là nghiên cứu vai trò và ảnh hưởng của hoạt động văn hoá – văn nghệ đến công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Nhiệm vụ của đề tài là phân tích khái niệm, những vai trò cơ bản của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng, đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế của hoạt động này, đồng thời đưa ra một số giải pháp tích cực nhằm khắc phục các mặt yếu kém, khuyết điểm.

III. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, nghiên cứu tài liệu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hoá – văn nghệ.

Kết hợp phương pháp thống kê thu thập thông tin, phương pháp quan sát thực tế.

IV. Kết cấu đề tài.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm có 2 chương, 7 tiết.

Chương I: Văn hoá – văn nghệ – một phương thức tác động tư tưởng có hiệu quả.

Chương II: Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay.

B. Phần nội dung

Chương I: Văn hoá – văn nghệ – một phương thức tác động tư tưởng có hiệu quả.

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của văn hoá – văn nghệ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kho tàng lý luận toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó hình thành từ khi bước đầu tham gia các hoạt động yêu nước và được phát triển, hoàn chỉnh trong qúa trình Người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nước ta. 

Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần II (2/1951) trở lại đây đã liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách… Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội VII (6/1991), Đảng ta đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Đến Đại hội IX (4/2001) Đảng ta lại một lần nữa khẳng định điều này.

Trong tư tưởng của mình Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của văn hóa – văn nghệ. Bằng sự trải nghiệm của bản thân và trí tuệ của mình, Người đưa ra khái niệm về văn hoá – văn nghệ như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức là văn hoá. Văn hoa lqà sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt của nó mà loài người đã sản sinh ra các nhằm tích sứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Như vậy, văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứnglà lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Tư tưởng ấy thể hiện nhất quán trong các bài viết, bài nói chuyện có tính chỉ đạo của Người.

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới vị trí, vai trò của văn hoá – văn nghệ đối với kinh tế và chính trị. Bác viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bồn vấn đề cần chú ý đến, cũng  phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá ”. Theo Người bốn vấn đề đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động lẫn nhau: “Chính trị có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển”. Người viết: “Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hoá của ta vì thế không nảy sinh được” và cho rằng văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị điều này có nghĩa là văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, tác động tích cực trở lại kinh tế và chính trị như một động lực hết sức quan trọng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trình độ văn hoá của nhân dân cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh ”.

Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị nghĩa là văn hoá phải thấm nhuần chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước phục vụ các nhiệm vụ cách mạng cụ thể. Người phê phán thứ văn hoá phù phiếm, xa rời hiện thực cuộc sống: “Văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hoá xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông”.

Hơn ai hết, Người thấu hiểu: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá”. Đồng thời Người cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nguyên nhân kém hiệu quả kinh tế, đó là: “Trình độ văn hoá của cán bộ và nhân dân ta còn thấp do đó còn hạn chế nhiều kết quả trong công tác sản xuất”.

Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của một quốc gia. Trong cuộc trả lời phỏng vấn của phóng viên báo L’Humanite’ (Pháp), Bác nói: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hoá”. Điều này rất đúng với suy nghĩ của Lênin cho rằng sau khi giành được chính quyền, toàn bộ các hoạt động của Đảng phải đặt trọng tâm “chuyển dần sang công tác tổ chức văn hoá”.

Trên lĩnh vực chính trị, Người nói: “Văn hoá có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Văn hoá làm cho mọi Người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông vàđàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình nên được hưởng. Đây chính là sức mạnh của nhất đối với chính trị Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhiệm vụ của người cán bộ nhất là phải dùng văn hoá để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội ”.

Thứ hai, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của văn hoá gia đình, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Bác nói: “Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đủ bản lĩnh chính trị, có đạo đéưc trong sáng, lối sống lành mạnh, vững về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đang đòi hỏi sự tham gia tích cực của các nhiệm vụ văn hoá”. Người nói: “Xúc tiến, công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”. Người đặc biệt nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cách mạng, cho rằng: “Cũng như sông, thì có nguồn mới có nước, không có nguồn không có nước. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Chiến lược xây dựng con người mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để đảm bảo cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế và chính trị, dựa trên những hiểu biết sâu sắc về vai trò của văn hoá giáo dục. Nhất ở trong kinh tế và chính trị cũng có nghĩa là văn hoá phải góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đồng thời góp phần nâng cao tri thức của các tầng lớp nhân dân đủ trí, đủ tâm thực hiện đường lối kinh tế, chính trị do Đảng ta đề ra.

Thứ ba, Hồ Chí Minh quan niệm văn hoá – văn nghệ là công cụ sắc bén trong đấu tranh cách mạng, là một mặt trận và người làm văn hoá, văn nghệ là chiến sĩ cách mạng trên mặt trận ấy. Trong diễn văn khai mạc Hội Nghị văn hoá toàn quốc lần thứ I (4/1046), Người có một câu nói bất hủ: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Quan niệm này đã đặt những người hoạt động văn hoá – văn nghệ lên tầm cao mới trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời cho thấy tính chất khó khăn, phức tạp của công tác tuyên truyền, xây dựng con người thực hiện sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Hồ Chí Minh đòi hỏi văn hoá nghệ thuật vừa phải khẳng định bản chất nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ vươn tới cái đẹp: “Thơ xưa, yêu cảnh thiên nhiên đẹp. Mây gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Đồng thời phải: “Nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong ”.

Người cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”. Do vậy, với trách nhiệm của công dân và trách nhiệm chính trị của người chiến sĩ văn hoá, văn nghệ  sĩ không thể bàng quang, thờ ơ trước thời cuộc. Bác đòi hỏi: “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn, phải thực sự hoà mình với quần chúng cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp, phải hết lòng giúp đỡ thanh niên”.

Học tập tư tưởng trên của Người, chúng ta càng không thể sao nhãng nhiệm vụ xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng chính trị độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, không ngừng học tập vươn lên tiến kịp tư duy thời đại, làm chủ công nghệ tiên tiến, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

1.2.1. Văn hoá – văn nghệ trong đời sống xã hội.

 Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con người.

Lịch sử xã hội loài người đã khẳng định con người có hai nhu cầu lớn nhất: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Song đặc trưng riêng nhất của con người là nhu cầu tinh thần, là khát vọng đạt tới sự phong phú cao đẹp của thế giới tinh thần, tâm hồn, vươn lên theo lý tưởng chân, thiện, mỹ. Đối với đời sống một con người, từ khi sinh ra đến khi trưởng thành nhu cầu sâu xa, thường xuyên hàng ngày. Đối với cả loài người, con người luôn luôn sống và phát triển trong hai cái nôi  vĩ đại, đó là đại tự nhiên, là môi trường văn hoá do chính con người xây đắp và sáng tạo cho mình.

C.Mác nhận định, văn hoá là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra những giá trị văn hoá, những tác phẩm và công trình nghệ thuật làm giàu đẹp  thêm cho đời sống con người. Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất,  lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị đặcbiệt, khi được nhân dân khẳng định, nó trở thành những công trình có sức sống lâu dài, trường tồn với thời gian là sự thực hiện bản sắc, đặc trưng những vẻ đẹp độc đáo của một cộngđồng, một dân tộc. 

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Trong quan điểm thứ nhất của Hồ Chí Minh về văn hoá, Người nhấn mạnh vai trò của văn hoá – văn nghệ đối với sự phát triển kinh tế.

Đảng ta tiếp tục khẳng định, nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống ấy. Vì vậy, hai lĩnh vực kinh tế và văn hoá luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong giáo dục đối với sự vận động và phát triển của xã hội đó. “Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, văn hoá có khả năng to lớn khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn nội lực nội sinh quyết định  sự phát triển của đời sống xã hội. Trong sự nghiệp liên hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau giưa các hoạt động đa dạng của đời sống xã hội, chúng ta cần hiểu rằng văn hoá vừa là một thành tố gắn bó khăng khít, vừa là thước đo trình độ phát triển của các lĩnh vực khác và của toàn xã hội. Do đó, với tư cách là mục tiêu của sự phát triển văn hoá thể hiện trình độ phát triển ngày càng cao của con người và xã hội.

Từ vị trí của văn hoá là mục tiêu của sự phát triển, chúng ta cần phải nắm chắc mối quan hệ giữa văn hoá- kinh tế, kinh tế – văn hoá, trong đó đặc biệt chú ý luận điểm quan trọng trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”. F.Mayor – Nguyên Tổng giám đốc Unesco đã nhấn mạnh: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ sảy ra những mất cân đối nghiêm trọng trong cả nền kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”.

Văn hoá giữ vai trò cực kỳ quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người

Mục tiêu cao nhất của sự sản xuất tinh thần, lĩnh vực đặcthù của văn hoá là xây dựng nền hệ thống các giá trị làm chuẩn mực cho con người vươn tới, noi theo. Khi các chuẩn mực, các giá trị đó được tiếp nhận, được thấm sâu vào từng con người và từng cộng đồng thì đó chính là quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất trong con người. Tổng hợp các phẩm chất tốt đẹp đã được hình thành trong con người chính là nhân cách. Như vậy, nếu sản xuất vật chất nhằm tạo ra của cải cho con người thì sản xuất tinh thần nhằm tạo ra những phẩm giá, những giá trị trong nhân cách con người. Đó chính là một trong những sứ mệnh cao quí nhất. Con người là chủ thể sáng tạo nuôi dưỡng, xây đắp và góp phần phát triển con người. Chính dovị trí, vai trò đặcbiệt của văn hoá trong đời sống xã hội, chúng ta cần phải biết phát huy tối đa sức mạnh của văn hoá, làm cho các nhân tố của văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi phương diện của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực và công tác tư tưởng.

1.2.2. Vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng.

Quan điểm thứ ba trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Người nhấn mạnh vai trò của văn hoá – văn nghệ trong đấu tranh cách mạng. Người coi đây là “một mặt trận” và quan niệm văn hoá – văn nghệ là một công cụ, một thứ vũ khí sắc bén nhằm đập tan các âm mưu của kẻ thù trên lĩnh vực này.

Nối tiếp kinh nghiệm và tiếp tục khẳng định chân lý đó, Đảng  ta đã đưa ra nhiều quan điểm và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp cho công tác tư tưởng trên lĩnh vực văn hoá – văn nghệ đối với từng giai đoạn phát triển của cách mạng.

Quan điểm nhất quán và xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hoá của Đảng ta từ 1930 đến nay luôn khẳng định văn hoá – văn nghệ là biện pháp khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng có sự mệnh phục vụ các nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ và gắn bó sâu sắc với đời sống của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam nhậnđịnh, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải vó ý chí cách mạng vạư kiên trì, thận trọng. Quan điểm này khẳng định lại yêu cầu nâng cao tính chiến đấu của văn hoá, kết hợp nhuần nhuyễn giữa xây dựng và chống lấy xây làm chính.

Trong quan điểm này về xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ trực tiếp và cực kỳ quan trọng xây dựng con người cũng có nghĩa là là xác nhận vai trò to lớn và vị trí đặc biệt của văn hoá trong công tác tư tưởng và hoạt động tư tưởng. Bởi vì, xét về bản chất, công tác tư tưởng là toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực ý thức của con người, nhằm mụctiêu chủ yếu là biến tư tưởng tiến bộ, cách mạng đến lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng chế độ  mới, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp cách mạng trở thành hệ tư tưởng chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội. Như vậy, có nghĩa là hoạt động văn hoá – văn nghệ và công tác tư tưởng có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ vì đều là các lĩnh vực trong phạm trù ý thức đến tinh thần và đều là các công việc trực tiếp đối với con người. Trong quan hệ đặc thù này, văn hoá – văn nghệ trở thành một sức mạnh, một phương thức độc đáo, có hiệu quả của công tác tư tưởng.

Chúng ta cần phái hiểu rằng, quan điểm trên không phải là sự áp đặt hay bóp méo văn hoá- văn nghệ, biến nó thành “cái loa” của công tác tư tưởng. Tuy nhiên, sự tác động tư tưởng của văn hoá – văn nghệ chỉ được thựchiện một cách sinh động và thuyết phục khi nó thông qua các chức năng và các đặc trưng của văn hoá. Vì vậy, yêu cầu không ngừng nêu cao và khẳng định nội dung tư tưởng của văn hoá, của các sản phẩm và hoạt động văn hoá – văn nghệ chỉ là định hướng chính trị cơ bản trong công tác văn hoá – văn nghệ trước cuộc đấu tranh tư tưởng  – văn hóa đang diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp hiện nay, mà còn là một nhu cầu của chính văn hoá để tạo ra được cái giá trị văn hoá theo đúng vai trò và chức năng nó đảm nhiệm trước xã hội. Theo Nghị quyết 05/NQ-TW ngày 28/11/1987 của bộ chính trị: “Văn hoá và văn hoá nghệ thuật có tác dụng to lớn trong việc góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thoả mãn những nhu cầu văn hoá ngày càng tăng của nhân dân”.

1.3. ý nghĩa thực tiễn của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng.

Văn hoá – văn nghệ là một bộ phận khăng khít của cách mạng Việt Nam có nhiệmvụ phục vụ các mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn quá độ hiện nay, văn hoá – văn nghệ càng thể hiện rõ được tầm quan trọng của mình trong cuộc đấu tranh chống “âm mưu diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc trên mặt trận tư tưởng – văn hoá góp phần ổn định tình hình chính trị thúc đẩy kinh tế phát triển, cải tạo đời sống tinh thần cho nhân dân. Với vai trò, vị trí và chức năng to lớn như vậy, văn hoá – văn nghệ mang ý nggiã thực tiễn sâu sắc.

Trong xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng là một nhân tố quan trọng hàng đầu nhằm ổn định chiến lược về mặt tinh thần cho nhân dân, là động lực mạnh mẽ hiúp nhân dân hăng say lao động sản xuất sáng tạo không ngừng nghỉ, không mệt mỏi. Giúp cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi sâu vào quần chúng, thấm nhuần trong ý thức và hoạt động của quần chúng để quần chúng tin và làm theo Đảng.

Trong đấu tranh chống các âm mưu phá hoạu trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá của chủ nghĩa đế quốc, văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng như một người chiến sĩ  cách mạng kiên trung, bất khuất, dũngcảm, gan dạ; mang trong mình sức mạnh văn hoá truyền thống của dân tộc anh hùng từng bước đè bẹp, đập tan mọi mưu mô, thủ đoạn của kẻ thù hòng làm phai nhạt tư tưởng cách mạng trong nhân dân ta. Văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng đã khơi dậy niềm tin trong quần chúng, là động lực thúc đẩy sự cám dỗ, mua chuộc, xuyên tạc, nói xấu… từ các lực lượng phản cách mạng. Tuy cuộc đấu tranh này còn gam go, ác liệt và lâu dài, nhưng chắc chắn phần tháng sẽ nghiêng về  nhân dân ta, những con người luôn khát khao hoà bình, hạnh phúc, độc lập và tự do.

Bên cạnh đó, văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng cũng góp phần đưa nền văn hoá nước ta hoà nhập vào nềnvhnói chung của thế giới mang bản sắc văn hoá dân tộc đến với thế giới trong sự ngưỡng mộ của bè bạn 5 châu. Đồng thời tăng cường tình đoàn kết lâu đời về văn hoá, chính trị giữa dân tộc ta với các nước chủ nghĩa xã hội anh em trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.


Chương II. Thực trạng vai trò văn hoá – dân tộc trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay.

2.1. Những thành tựu cơ bản.

2.1.1. Vai trò văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng thời kỳ chống Mỹ. 

Bằng trí tuệ và tầm nhiều chiến lược của một nhà lãnh tụ kiệt xuất, từ khi bắt đầu hoạt động cáchmạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng. Đến khi Người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nước ta trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng đã được nâng lên một tầm cao mới. Người coi văn hoá – văn nghệ là “mặt trận ” và cán bộ văn hoá – văn nghệ là “người chiến sĩ” trên mặt trận ấy. Câu nói nổi tiếng của Người: “Văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” minh chứng rõ ràng cho tính chất quyết liệt của công tác tư tưởng – văn hoá.

Từ trước đến nay, trong tất cả các chỉ thị Nghị quyết của Trung ương cũng như các ngành, cụm từ tư tưởng – văn hoá luôn dược học đặt cạnh nhau, ngang hàng nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Nắm rõ mối quan hệ mật thiết và khăng khít này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bác Hồ và Đảng ta đã phát huy cao độ vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ và đạt  được nhiều thành tựu to lớn.

Một là, công tác văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng, đã giúp các cấp uỷ đảng tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về mục tiêu, đường lối cách mạng; trên cơ sở đó chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ lịch sử nhằm phục vụ đắc lực sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đấu tranh giành độc lập và dân chủ, thống nhất nước nhà.

Nghị quyết Hội nghị lần 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoa V) tháng 7/1954 xác định” “Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, kẻ thù chính chống đế quóc Mỹ”. Chính văn hoá – văn nghệ đã nhận thức sâu sắc Nghị quyết Ban chính trị (9/1954) về đặc điểm quan trọng của đất nước lậtm thời chia làm hai miền, có hai chế độ chính trịkhác nhau. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tạo cơ sở thuận lợi chi viện đắc lực cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, công tác cá chép – văn nghệ lúc này đặt lên hàng đầu vấn đề phải tiếp nhận tư tưởng trong toàn Đảng, về chủ trương, đường lối cá mực của Đảng trong thời kỳ mới. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 83 CT/TW (1954) trong đó chỉ rõ: “Trong 10 công tác thì công tác tư tưởng là quan trọng nhất”. Nghĩa là hoạt động văn hoá – văn nghệ phục vụ cho công tác tư tưởng cũng được coi là quan trọng nhất.

Văn hoá – văn nghệ làcông cụ, là phương tiện để công tác tư tưởng thực hiện các mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của mình đối với cách mạng Việt Nam. Vì thế khi Đảng ta xác định nhiệm vụ cho công tác tư tưởng cũng tức là đặt ra nhiệmvụ cho công tác tư tưởng văn hoá – văn nghệ. Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) liên tiếp khẳng định vị trí to lớn của cách mạng về tư tưởng là: “Làm cho tư tưởng của toàn dân, trên công tác tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thnàh hệ tư tưởng của toàn nhân dân”. ở đây, công tác văn hoá – văn nghệ với tất cả các chức năng và nội dung của mình cũng phải: “làm cho ….nước ta”, đồng thời phải đưa nó “trởt thành… mới của nhân dân”. Sau Đại hội IV của Đảng, công tác văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng đã góp phần hết sức quan trọng trong việc củng cố và thúc đẩy ý chí quyết tâm thực hiện bằng được hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và và tay sai, thựchiện thống nhất nước nhà, hiàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Hailà. Hoạt động văn hoá – văn nghệ đã góp phần to lớn cổ vũ, động viên tinh thần của nhân dân quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh đóng góp có hiệu quả vào thắng lợi của cuộc kháng cgiến chống Mỹ cứu nước.

Hoạt động văn hoá – văn nghệ của Đảng bằng sức mạnh tổng hợp của các binh chủng và phương thức tác động như: các đội văn công, các đoàn ca múa nhạc, sách báo, phim ảnh, khẩu hiệu, thơ ca cách mạng, thư từ, tài liệu… để tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, nhân dân ta đường lối cách mạng của Đảng, phản ánh sinh động tình cảm của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ, với quê hương đất nước; cổ vũ tinh thần dtngoan cường và đề cao những tấm gương anh dũng ở cả hai miền Nam, Bắc. nhiều tác phẩm văn học, báo chí ra đời từ mưa bom bão đạn có sức lay động hàng triệu con tim, gây ấn tượng sâu sắc trong quần chúng, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, như các bài thơ chúc tết của Bác Hồ, đặc biệt là  bài thơ chúc Tết xuân Kỷ Dậu 1969:

Năm qua thắng lưọi vẻ vang

Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to

Vì độc lập, vì tự do

Đánh cho Nỹ cút, đánh cho ngụy nhào

Tiến lên chiến sĩ đồng bào

Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn.

Nhiều bài thơ và tác phẩm văn hoá có sức cuón hút người đọc như các bài “Bác ơi!” của Tố Hữu, “Dáng đứng Việt Nam ” của Lê Anh Xuân… các tiểu thuyết “Hòn đất” của Anh Đức, “Sống như anh”, “Chị út Tịch” rồi “Rừng xà nu” “Đất nước đứng lên”… Đặc biệt, trong thời kỳ này, phong trào “tiếng hát át tiếng bom” ở tiền tuyến  hoạt động một cách mạnh mẽ, tạo hưng phấn chiến đấu to lớn trong cán bộ, chiến sĩ ở khắp các chiến trường. Các bài hát “Giải phóng miền Nam”, “Bài ca hy vọng”, “Tình ca”, “Xuân chiến khu”… đã động viên không ngừng tráo tim yêu nước dũng cảm, gan dạ của bộ đội ta hăng say chiến đấu quên mình, không sợ hy sinh, đổ máu.

Một bộ phận lớn đội ngũ cán bộ văn hoá- văn nghệ cũng theo chân các đoàn quân hùng dũng bước ra các mặt trận mà cuộc chiến đấu giữa ta và địch đang diễn ra vô cùng ác liệt. Họ ra đi quên mình với  trái tim và khối óc vì Tổ quốc, vì Đảng, vì Bác Hồ kính yêu thà hy sinh, gian khổ. Họ không bận tâm rằng rồi mai đây mình có còn hay mất. Những tấm gương tiêu biểu nhất, sáng ngời nhất cho đội ngũ này, đó là Nghệ sỹ nhân dân Thanh Hoa, Nghệ sỹ nhân dân Thu Hiền, Nghệ sỹ ưu tú Quốc Hương, Kiều Hưng, Quang Thọ, Trung Kiên… Tuy nhiên cũng có nhiều người đã phải nằm lại ngoài mặt trận vì nhiệm vụ mà không được thấy ngày đất nước toàn thắng, non sông thu về một mối như Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mỹ Dạ… còn ở hậu phương, khi đế quốc Mỹ dùng không quân vầhỉ quân đánh phá miền Bắc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch đã phát động các phong trào “3 đảm đang”, “gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì tiền tuyến”… Một loạt các bộ phim hay như “Chung một dòng sông”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”,  “Cánh đồng hoang”…được nhân dân ta tôn trọng đón nhận vì nói thay được tình cảm và ý chí của cả dân tộc trong cuộc chiến tranh chính nghĩa. Bên cạnh đó, một loạt các thực phẩm âm nhạc cũng ra đời như “Bài ca 5 tấn”, “Quảng bình quê ta ơi”…Đây là những bài ca đi cùng năm tháng cổ vũ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta vượt lên mọi gian nan thách thức hướng tới ngày toàn thắng.

Cùng với những thực phẩm văn hoá, nghệthuật nổi tiếng, nhiều bài bình luận trên các báo nhân dân, Quân đội nhân dân có giá trị tư tưởng, chính trị được phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, đã vạch rõ bản chất tàn bạo của kẻ thù, ca ngợi phẩm chất kiên cường, chủ nghĩa nhân văn cao đẹp của  dân tộc ta trong cuộc chiến đấu vì độc lập, tựdo của dân tộc, vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Điển hình là các bài xã luận, bình luận hừng hực khí thế chiến đấu như “Thắng lợi của xuthế cách mạng” (Hoàng Tùng), “Hà Nội – Thủ đo của lương tri và phẩm giá con người” (Thép mới), “Than ôi! Thời oanh liệt của Mỹ nay còn đâu” (Nguyễn Hữu Chỉnh)…

Công tác văn hóa văn nghệ trong kháng chiến chống Mỹ đặc biệt trú trọng nhiệm vụ cổ vũ và nhân rộng phong trào thi đua yêu nước, các điển hình tiên tiến cho lao động học tập và chiến đấu biểu hiện lớn nhất là cổ động nhân dân hưởng ướng và lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/7/1966, 3/11/1968 rồi di chúc thiêng liêng của người tháng (9/1969) đã tạo nên sự điều kiện nhất trí trong toàn đảng; toàn quân và toàn quân hướng tới mục tiêu độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Cho tới ngày 30/4/1975 đội ngũ cán bộ văn hóa văn nghệ của đảng có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.

2.1.2 Văn hóa – văn nghệ trong công cuộc đổi mới hiện nay

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng năm 1975 Đảng và Nhà nước ta chủ trương thống nhất đất nước đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1975-1986 do sự rập khuân máy móc trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sự tồn tại không phù hợp của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của kinh tế đất nước. Nhận thức được hạn chế đó, tại đại hội VI của Đảng 12/1986 Đảng ta đã đưa ra chủ trương đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là đổi mới về kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ đó đến nay công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng đưa nền kinh tế phát triển nhanh, chính trị được ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong những thành công này có một phần đóng góp không nhỏ của các hoạt động văn hóa – văn nghệ.

Thứ nhất, công tác văn hóa- văn nghệ đưa dân tộc có hiệu quả chống các tệ tham nhũng, quan liêu của cán bộ đảng viên, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch,vững mạnh trèo lái con đường cách mạng Việt Nam đi tới…

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và chỉnh đốn đảng, tăng cường hoạt động phê và tự phê trong đội ngũ cán bộ đảng viên, làm cho đảng ngày càng trong sạch vững mạnh”. Để tư tưởng đó đi sâu vào từng đảng viên, cán bộ, Đảng ta luôn đề cao vai trò của hoạt động văn hóa- văn nghệ coi đó là một công cụ quan trọng hàng đầu và hiệu quả nhất. Hàng loạt các tác phẩm từ báo chí, thơ ca, phim ảnh, ca khúc đến các bộ luật, phanô áp phích tranh ảnh cổ động… có nội dung sâu sắc nhằm đấu tranh chống các quan điểm sai trái trong một bộ phận đảng viên, cán bộ được ra đời với nhiều nội dung phong phú, hấp dẫn, thậm chí là hài hước. Trong các tác phẩm báo chí, có rất nhiều bài báo nói về tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các nhà báo có năng lực và lý luận cách mạng vững vàng như Nguyễn Hữu Thọ, Hữu Ước… mục đích là biến tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành ánh sáng soi đường cho hoạt động của cán bộ, đảng viên trong cả nước. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài báo, bài bình luận về thái độ chưa nghiêm túc, chưa có ý thức tự giác, phê và tự phê trong đội ngũ những người công tác Đảng và chính quyền Nhà nước. Có nhiều bài vạch trần bộ mặt tham nhũng, quan liêu, bòn rút của cải của Nhà nước, tiền bạc của nhân dân, cản trở các mục tiêu  phấn đấu của đất nước, đặc biệt lấcc bài báo nói về vụ tham nhũng của Lã Thi Kim Oanh, của Khánh Trắng, vụ Tân trường Xanh, Rồi vụ Nhàbáo Trần Mai Hạn… Những bài viết này có tác dụng răn đe, giáo dục rất lớn, đối với những đảng viên, cán bộ còn đang tại vị, tại chức nhằm hướng họ tới những mục đích tốt đẹp hơn vì dân vì nước. Có nhiều bài phản ánh các nhân tố điển hình.

Trong phim ảnh, đã có rất nhiều bộ phim hay, đề tài xác thực, nội dung phong phú đề cập tới sự thoái hóa, biến chất của nhiều cán bộ, đảng viên trong bộ máy chính quyền Nhà nước như “Cảnh sát hình sự”, “Ông giám đốc”… Ngoài ra, các chương trình thời sự, phim tài liệu cũng thường xuyên có những buổi phát sóng về chống tham nhũng, quan liêu nhằm mục đích giáo dục quần chúng, cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh đó,  Nhà nước ta trong Bộ luật hình sự của mình cũng đã có những điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các điều khoản trong chống tham nhũng cho phù hợp với tình hình mới. Các panô, áp phích mang tính chất cổ động cũng được trưng bày ở khắp mọi nơi nhằm tác động vào ý thức của nhân dân.

Trong các thực phẩm văn học, thơ ca cũng có nhiều bài phản ánh tệ tham nhũng quan liêu, hài hước, đả kích, sự thoái hóa của nhiều vị trí lãnh đạo. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều thực phẩm đề cao vai trò của người Đảng viên trong khi thực hiện chức năng của mình trở thành những tấm gương sáng cho mọi người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

Thứ hai, văn hoá – văn nghệ cổ vũ tinh thần hăng say lao động sản xuất của nhân dân, tích cực tiếp thu khoa học – kinh tế vào sản xuất, khơi dậy truyền thống vẻ vang của dân tộc, đẩy mạnh đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội trong sự nghiệp đổi mới.

2.2. Những hạn chế cần khắc phục.

Bên cạnh những thành tựu to lớn mà hoạt động văn hoá – văn nghệ đã đạt được từ tước tới nay góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, văn hoá – văn nghệ còn nhiều hạnchế cần khắc phục,

1. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự phát triển của văn hoá lại chưa đồng bộ với kinh tế.

Hội nghị Trung ương 10 khoá IX về tiếp tục thực hiện Nghịquyết Trung ương 5 khoá VIII đã kết luận: “Sự phát triển của văn hoá chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế…Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng…”

Việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế 10 năm, từ 1991-2000 đạt được nhiều thành tựu làm phát triển hẳn diện mạo đất nước: tốc độ GDP bình quân 10 năm là 7,5%, trong đó nông lâm ngư nghiệp tăng 4,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 11,7%, các ngành dịch vụ tăng 7,2%. Tổng sản phẩm trong nước từ 1990 đến 2000 của kế hoạch 10 năm (2001-2010) nền kinh tế nước ta tiếp tịc duy trì sự ổn định và phát triển. Ngược lại, văn hoá lại chậm phát triển do nhiều nguyên nhân khác nhau: sự quan tâm đầu tư của Nhà nước còn ít, trình độ thấp, nội dung hoạt động văn hoá -văn nghệ chưa hay, hình thức kém phong phú, đa dạng…

2. Văn hoá – văn nghệ trong cuộc đấu tranh chống các hoạt động phá hoại của kẻ thù trên mặt trận tư tưởng chưa đạt hiệuquả cao.

Lợi dụng các kẽ hở, sự yếu kém trong công tác quản lý văn hoá- văn nghệ ở nước ta, các thế lực thù địch phản cách mạng đã liên tục tấn công chúng ta trên lĩnh vực này. TRên mạng Internet, các trang Web với nội dung phản động, hình ảnh đồi truỵ, vô văn hoá… do chúng ta và truyền tài vào hệ thống mạng trong nước nhằm tác động vào tư tưởng của nhân dân ta, mà đặc biệt đáng lo ngại là thế hệ trẻ. Chúng ta chưa có nhiều biện pháp để  ngăn chặn, tạo bức tường lửa. Ngoài ra, chất lượng các buổi phát sóng củấcc kênh truyền hình chưa phong phú, đa dạng để thuhút được đông đảo quần chúng, còn các chương trình của Mỹ đặt tạo Philippin, Hồng Kông thì rất hay và đa dạng, sắc xảo.

3. Đời sống văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số còn rất nhiều, lạc hâu và có sự chênh lệch lớn với các lĩnh vực kinh tế khác của đất nước.

Một bộ phận không nhỏ người dân miền núi, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ vẫn còn đói nghèo, bệnh tật thiếu sự hưởng thụ văn học, nghệ thuật. Một số các dân tộc ở Tây Nguyên, miền Trung vẫn còn đốt rãy, phá rừng. Đáng lo ngại là các tệ nạn xã hội chư cờ bạc, nghiện hút ma tuý phát triển ở một só địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Văn hoá phẩm độc hại, băng đĩa lậu có nội dung độc hại vẫn tràn lan ở một só địa phươg có cửa khẩu biên giới nước ta.

4. Văn hoá – văn nghệ chưa phục vụ được hết các nhu cầu giáo dục trong nước.

Hiện nay nhu cầu đọc, học và nghe của người dân lảats lớn, đặc biệt là học sinh, thanh thiếu niên. Tuy vậy, công tác văn hoá lại chưa đáp ứng được những yêu cầu này. Hócinh, thanh thiếu niên ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa vẫn còn thiếu thốn rất nhiều các loại sách báo, dụng cụ, phương tiện học tập, thiếu đài báo, ti vi để xem…

5. Tình trạng văn hoá – văn nghệ hiện nay không có nhiều tác dụng cổ vũ, kêu gọi tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc.

Phần lớn các bài viết các thực phẩm văn hoá, thơ ca, hội hoạ, sách báo… hiện nay đều nhằm mục đíc thị hiếu là chính, nhất là sức tác động tới tư tưởng của người nghe làm trỗi dậy niềm tự hào dân tộc. Hoạt động văn hoá- văn nghệ chỉ mang tính thị trường do sự  hám danh lợi và tiền bạc của các tác giả và của những người sử dụng văn hoá – văn nghệ làm phương tiện để ca hát, sinh hoạt.

6. Hoạt động văn hoá- văn nghệ hiệnnay đang đứng trước tình trạng các nhà văn hoá trong nước ăn cắp bản quyền của nước ngoài, sao chép lại nội dung, kết cấu, cốt lõi thậmchí là y nguyên của các tác giả nước ngoài mà chúng ta vẫn quen gọi đó là “đạo văn”.

7. Công tác quản lý và điều hành văn hoá – văn nghệ còn yếu kém. Các hoạt động văn hoá – văn nghệ chưa đi sâu đi sát với các  yêu cầu của đời sống xã hội, chưa có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của kinh tế, chính trị… văn hoá – văn nghệ chưa phục vụ hết mình vì sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Nhìn chung, các mặt hạn chế của hoạt động văn hoá- văn nghệ đã có những ảnh hưởng tương đối lớn đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Nó cản trở việc thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu của kinh tế chính trị. Vì vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục đúng đắn, kịp thời nhằm phát huy tối đa sức mạnh của văn hoá.

2.3. Bài học kinh nghiệm

Qua quá trình nghiên cứu và phân tích các thành tựu cũng như những khuết điểm của công tác văn hoá – văn nghệ ở nước ta những năm qua đã rút ra một số bài học kinh nghiệm lớn sau:

Trước nhất phải giải quyết một cách hài hoà và tốt đẹp mối quan hệ giữa truyền thống và hiện tại. Điều này không chỉ xuất phát từ việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá như một qui luật nội tại mà còn chịu sự tác động của bối cảnh kinh tế quốc tế, xu hướng phát triển của thời đại.

Thứ đó là phải giải quyết tốt và linh hoạt mối quan hệ giữa tính thống nhất trong đa dạng. Chúng ta có 54 dân tộc với các nền văn hoá đa dạng khác nhau, cùng sống trên một vùng lãnh thổ tựnhiên chung nhiệt đới gió mùa, phương thức canh tác chính là trồng lúa nước. Do đó, để phát huy được vai trò của văn hoá – văn nghệ chúng ta cần tăng cường mối quan hệ thống nhất giữa các vùng văn hoá ấy. Đồng thời mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác về văn hoá với thế giới.

2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay.

Giải pháo đầu tiên đó là, cần phải tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động văn hoá- văn nghệ. Đây là giải pháp kiên quyết cho mọi thắng lợi của tất cả các hoạt động nói chung và của hoạt động văn hoá – văn nghệ nói riêng. Đảng ta đã có kinh nghiệm trong công việc này, làm cho văn nghệ gắn bó sâu sắc với nhiệm vụ của từng giai đoạn, tự nguyện phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh vãd của nhân dân.

Giải pháo thứ hai, phái kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm lệch lạc, sai lầm trong lĩnh vực văn nghệ và loại bỏ những văn hoá phẩm độc hại đang đầu độc con người về tinh thần, tình cảm…

Giải pháp thứ ba, sử dụng  các tác phẩm, các dẫn chứng của văn nghệ để chuyển tải, chứng minh, khẳng định cho mộtnd, một chủ đề của hoạt động tư tưởng. Ví dụ như tác phẩm văn hoá, truyền ngắn: “Những bức tường lửa” của nhà văn Khuất Quang Thuỵ ca ngợi cuộc kháng chiến gian khổ của dân tọc chống đế quốc Mỹ. Tác phẩm này sẽ có tác dụng khơi dậy, cổ vũ tinh thần yêu nước và  lòng tự hào dân tộc rất cao của nhân dân ta.

Giải pháp thứ tư, sử dụng văn hoá – văn nghệ là một nhân tố bổt trợ cho hoạt động tư tưởng như tổ chức tham quan di tích lịch sử, văn hoá tìm hiểu bảo tàng, truyền thống, thăm và chăm sóc nghãi trang liệt sĩ…Các hoạt động này sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về văn hoá dân tộc.

Giải pháp thứ năm, sử dụng các chương trình biểu diễn nghệthuật có mục tiêu, theo một chủ dề phcụvụ cho hoạt động tư tưởng. Tiêu biểu như các buổi biểu diễn văn hoá – văn nghệ chào mừng ngày giải phóng Điện Biên Phủ…

Giải phong tràoáp thứ sáu, tổ chức các hoạt động văn hoá của quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ và tuyên truyền, xây dựng các chương trình gắn chặt với mục đích và nội dung tuyên truyền, thông qua ưu thế và cách biểu hiện của văn học, nghệ thuật để chuyển tải sinh động, nhẹ nhàng đến quần chúng. Các đội tuyên truyền  viên trẻ… ở các địa phương, các ngành đang phát huy hiệu quả phương thức này.

Giải pháp thứ bảy, xây dựng chương trình tổng hợp, tạo những sân chơi từng nhóm quần chúng trong đó biết kết hợp sinh động các loại hình văn hoá, văn học, nghệ thuật phù hợp với sở thích, tâm lý từng đố tượng, đưa họ trở thành người làm chủ, người trong cuộc, trực tiếp tham gia sân chơi không còn là người tiếp nhận thụ động, ngoài cuộc. Đây là dấu hiệu mới của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các loại hình, binh chủng của công tác tư tưởng – văn hoá.

Để tạo được sự kết hợp trên, có vì đòi hỏi đặt ra đối với người cán bộ văn hoá – văn nghệ. Trước hết là sự am hiểu tường tận lĩnh vực trong cả sự thống nhất và tinh thần đặc thù của chúng để từ đó hướng tới sự đa dạng đi tới mọt mụctiêu là giáo dục, xây đắp con người. Trong tổ chức đòi hỏi khả năng hợp đồng tác chiến nhịp nhàng. Đó là con đường phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh vhủng trong công tác tư tưởng – văn hoá hiện nay.

C. Kết luận

Đảng ta xác định, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sựpt kinh tế – xã hội. Vì vậy cần phải chăm lo cho công tác văn hoá – văn nghệ. Chăm lo cho văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nó hoặc không giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế với mục tiêu cuối cùng là văn hoá (công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện…) thì không thể có sự bền vững của xã hội.

Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất nhưng đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Việc phát triển các giá trị văn hoá độc đáo và sắc thái riêng của văn hoá hơn  50 dân tộc anh em sống trên đất nước ta để bổ sung và làm phong phú tạo nên vẻ đẹp đa dạng và thống nhất của nền văn hoá Việt Nam hiệnnay. Đồng thời cần phải chú trọng đến hoạt động văn hoá – văn nghệ trong công tác tư tưởng phù hợp tình hình mới, tạo sự bền vững và ổn định trong phát triển kinh tế, chính trị.

Xây dựng và phát triển  văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng là người chiến sĩ đấu tranh trên một mặt trận đặc biệt, không tiếng súng.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Văn hoá là mặt trận, vì thế nhiệm vụ của văn hoá và đội ngũ cán bộ văn hoá nhất là trong giai đoạn hiện nay cực kỳ quan trọng. Các thế lực thù địch đã và đang ra sức tiến hành các hoạt động phá hoại nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó lĩnh vực tư tưởng là một trong những hướng tấn công chủ đạo  của quần chúng. Mục đích lớn nhât của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng là xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ nói xấu… chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, Đảng ta chỉ đạo ngành tư tưởng – văn hoá phải tập trung tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ.

 -Sưu tầm-

Có những người vô danh nhưng làm nên lịch sử!
Cảm ơn các anh (chị) đi trước đã viết nên bài nhưng em không thể biết được ai là tác giả, mong các bác thông cảm!