Vai trò của nhân dân trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Về kiểm soát quyền lực và cơ chế kiểm soát quyền lực
Theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà nước chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả nhất. Để đạt được mục tiêu này, việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phải tuân theo các nguyên tắc nhất định và kiểm soát quyền lực nhà nước cũng phải thống nhất trên cơ sở các nguyên tắc đó, như các nguyên tắc: quyền lực thuộc về Nhân dân, nguyên tắc pháp quyền, nguyên tắc công khai, minh bạch,…
Theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực đảm bảo mục đích và hiệu quả của quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước hiểu theo nghĩa thông thường là một khái niệm rộng. Nội hàm của nó bao gồm tất cả các hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, từ sự kiểm soát của cá nhân đến sự kiểm soát của các nhóm, các tổ chức, xã hội và nhà nước bằng các hình thức, biện pháp, phương tiện khác nhau với mục đích, nội dung khác nhau, các hoạt động kiểm soát ngầm, không chính thống đến hoạt động kiểm soát chính thống, hợp pháp trong xã hội.
Chương trình Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV, đầu phiên họp sáng ngày 10/11/2022, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được Quốc hội thông qua.
ẢNH: QUANG VINH
Vì vậy, khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước bao hàm hệ thống các cơ chế. Nếu xem kiểm soát quyền lực nhà nước là mội khái niệm chung thì cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một khái niệm riêng, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Mỗi cơ chế có cách thức, quy trình vận hành cụ thể để kiểm soát quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực, phạm vi nhất định.
Hoạt động quyền lực thì mục đích cơ bản của kiểm soát quyền lực là bảo đảm các hoạt động quyền lực đó đúng với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, phù hợp với quyết định quyền lực (đường lối chính trị, chính sách, pháp luật). Kiểm soát quyền lực bảo đảm xác lập một cách có hiệu quả mối liên hệ giữa chủ thể và khách thể quyền lực, kết nối toàn bộ quá trình thực hiện quyền lực. Vì vậy, kiểm soát quyền lực có thể được thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình thực hiện quyền lực.
Kiểm soát quyền lực là làm cho quyền lực được thực hiện một cách tối ưu, đạt mục đích cao nhất, hiệu quả và an toàn nhất. Kiểm soát quyền lực hợp lý, đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể quyền lực hoạt động tốt. Trong quá trình đó, kiểm soát quyền lực ngăn ngừa khả năng lạm dụng quyền lực.
Mục đích trước hết của kiểm soát quyền lực là bảo đảm để quyền lực được thực hiện đúng và có hiệu quả. Chỉ trong những trường hợp nhất định thì kiểm soát quyền lực mới nhằm mục đích ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái và vi phạm. Cần khắc phục quan điểm thu hẹp mục đích của hoạt động kiểm soát quyền lực chỉ đối với hành vi vi phạm.
Kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ khắc phục những vấn đề nan giải của Chính phủ đại diện. Trong xã hội hiện đại, quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân là quan hệ đại diện, ủy quyền. Đây là phương thức cơ bản để giải quyết những bất cập của hoạt động tập thể. Hơn nữa, phương thức này tận dụng được ưu thế, lợi ích của phân công lao động và sự chuyên nghiệp. Song, cũng phải thấy rằng, bản thân quan hệ này cũng tồn tại những khó khăn cần được nhận thức và khắc phục.
Kiểm soát quyền lực của Nhân dân đối với Nhà nước là một phương thức kiểm soát từ các chủ thể bên ngoài nhà nước. Nhà nước (với tư cách là một thiết chế đặc biệt của xã hội), là chủ thể giữ độc quyền cưỡng chế hợp pháp, thực hiện chức năng quản lý xã hội dựa vào pháp luật, đảm bảo thực hiện thông qua bộ máy hành chính nhà nước và cưỡng chế thi hành bằng các công cụ bạo lực như quân đội, cảnh sát, nhà tù, tòa án quyền lực nhà nước thường được sử dụng để cưỡng chế và loại bỏ những vật cản, những hành vi gây trở ngại cho việc thực hiện lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Khi đó, nếu quyền lực này được sử dụng một cách hợp lý sẽ đem lại cho xã hội sự trật tự và phát triển; ngược lại, nếu nó bị lạm dụng, sẽ gây hậu quả cho xã hội. Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự cưỡng chế và can thiệp của nhà nước cũng đúng đắn và mang lại hiệu quả. Với lý do như vậy, quyền lực nhà nước cần được điều chỉnh kịp thời, được kiểm soát thường xuyên và chặt chẽ. Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được Nhân dân ủy quyền, Nhân dân giao quyền. Vì quyền lực nhà nước là của Nhân dân, nhưng Nhân dân lại không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho nhà nước, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân
Ở nước ta hiện nay, các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân đã được xác lập và thể chế hóa trong Hiến pháp, nhất là tư tưởng chủ quyền nhân dân và sự kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân được quy định trong Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, tuy nhiên, cách thức thể hiện ít nhiều khác đi. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992, chỉ quy định: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều 6); Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 53); Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (Điều 83); Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp… (Điều 84); Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp (Điều 147)…
Tư tưởng chủ quyền nhân dân và kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân không những được tiếp tục quy định, mà còn được củng cố vững chắc hơn tại Điều 2, 3, 6 trong Hiến pháp năm 2013. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam.
Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua nhiều cách thức, trong đó đầu tiên và quan trọng nhất là bầu cử theo nhiệm kỳ
Chế độ bầu cử định kỳ, tự do, phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín chính là công cụ quan trọng nhất để người dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, người dân quyết định lựa chọn những cá nhân và tổ chức có đường lối và hoạt động phù hợp nhất với lợi ích của cộng đồng để ủy quyền thay mặt mình quản lý xã hội. Những cá nhân và tổ chức được Nhân dân lựa chọn qua bầu cử sẽ tiếp tục được người dân giám sát, đánh giá trong suốt quá trình thực thi quyền lực để quyết định có hay không tiếp tục ủy quyền trong kỳ bầu cử tiếp theo.
Bằng bầu cử mà Nhân dân có quyền bày tỏ sự tín nhiệm của mình đối với người cầm quyền. Bầu cử chính là phương thức để các công dân kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã ủy thác. Nếu người cầm quyền do mình bầu tỏ ra không xứng đáng, khi hết nhiệm kỳ, công dân có quyền không bầu cử họ. Điều 7 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”. Như vậy, nhờ bầu cử mà quyền lực nhà nước sau một thời hạn xác định lại trở về với Nhân dân. Bầu cử là một trong những cách thức buộc các quan chức nhà nước phải làm tròn nhiệm vụ và quyền hạn được Nhân dân giao.
Để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta phải có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài bởi Nhân dân và ngay chính bên trong bởi các cơ quan nhà nước. Việc bầu cử đại biểu ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau đảm bảo cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Các nguyên tắc bầu cử còn quy định quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo những quy định về bầu cử1.
Các cách thức bầu cử cũng như cơ chế vận hành các cuộc bầu cử có thể là khác nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của cuộc bầu cử dân chủ là giống nhau: Các công dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền đi bỏ phiếu và được quyền ứng cử vào các chức danh nhà nước, các cá nhân được bảo vệ chống lại các tác động tiêu cực trong bầu cử và vận động tranh cử, với sự kiểm phiếu công khai và trung thực. Những cuộc bầu cử như vậy cho phép Nhân dân kiểm soát trách nhiệm của các cơ cấu quyền lực nhà nước. Hiện nay, có 2 hình thức mà Nhân dân sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước của mình: Nhân dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước – hình thức dân chủ trực tiếp. Nhân dân bỏ phiếu bầu ra những người đại diện, thay mặt Nhân dân giải quyết các công việc của nhà nước – hình thức dân chủ đại diện.
Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Hình thức dân chủ đại diện là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trong việc xây dựng nhà nước nói chung và cơ quan đại diện – cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương ở nước ta nói riêng. Hình thức dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, trong đó tham gia thảo luận dự thảo Hiến pháp và luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình khi có trưng cầu ý dân về những vấn đề hệ trọng, liên quan đến vận mệnh quốc gia. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, có quyền bãi nhiệm các đại biểu đó nếu họ không còn xứng đáng với niềm tin của Nhân dân.
Tham gia bầu cử chính là nơi để cử tri phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân, lựa chọn bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Ngoài chế độ bầu cử, Nhân dân cũng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác
Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, các phương tiện truyền thông đại chúng kết hợp với công luận có vai trò hết sức quan trọng trong kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất là trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các cơ quan truyền thông cần tạo lập không khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm để hỗ trợ tích cực hơn nữa cho Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Thông qua báo chí, truyền thông, người dân không chỉ theo dõi mà còn bày tỏ thái độ, hiệu lực tác động rất mạnh đến đối tượng bị kiểm soát là nhà nước, còn được xem là “quyền lực thứ tư” sau quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhân dân kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam hiện có: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (Đài Phát thanh), báo hình (Đài Truyền hình), báo điện tử (được thể hiện trên mạng internet) và rất nhiều các hình thức truyền thông khác). Thông qua các phương tiện này, Nhân dân có thể kiểm soát quyền lực nhà nước. Với chức năng thông tin, chức năng tạo dư luận xã hội (phản biện) và chức năng giáo dục, nâng cao dân trí… các phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị – xã hội, hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của Nhân dân. Đồng thời, thông qua các phương tiện truyền thông người dân cũng có thể thể hiện ý chí, nguyện vọng, quan điểm, chính kiến về quản lý, điều hành xã hội cũng như thái độ của mình đối với Nhà nước. Do đó, chúng được coi là chủ thể quan trọng đồng thời là phương tiện đắc lực của Nhân dân để thực hiện chức năng kiểm soát đối với toàn bộ quyền lực nhà nước.
Sự kiểm soát của Nhân dân thông qua các chế định Hiến pháp
Nếu như sự kiểm soát của Nhân dân bằng bầu cử định kỳ là sự kiểm soát gián đoạn, không có tính liên tục, thì trong thời gian giữa hai nhiệm kỳ, quyền kiểm soát của Nhân dân được ghi nhận bằng những chế định Hiến pháp. Những chế định này đảm bảo cho Nhân dân trong những trường hợp nhất định có quyền bãi miễn các đại diện do mình bầu ra, quyền phúc quyết Hiến pháp, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia theo một trình tự pháp lý.
Quyền bãi miễn của Nhân dân, một phương thức để xử lý vấn đề các chính khách làm việc kém hiệu quả dưới sự quan sát của cử tri là luật bãi miễn được ghi nhận trong Hiến pháp.
Bầu cử phải đi đôi với bãi miễn, có như vậy người dân mới có khả năng đưa ra những người không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của họ mà không phải chờ đến nhiệm kỳ bầu cử. Quan điểm của C.Mác về vấn đề này rất rõ ràng. Ngay từ thời kỳ đầu khi thiết lập chính quyền Công xã Paris, C. Mác đã khẳng định: “Công xã loại bỏ hoàn toàn hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng những đầy tớ luôn có thể bị bãi miễn; thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng một trách nhiệm thực sự, vì những người được ủy nhiệm này luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân”.
Kiểm soát quyền lực nhà nước rất quan trọng và cần thiết để giữ cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đúng mục đích, phù hợp đạo lý, đạt hiệu quả cao và vì lợi ích của Nhân dân. Không quốc gia nào có thể phát triển nhanh, ổn định, bền vững nếu như quyền lực nhà nước không được kiểm soát và thực hiện đúng đắn. Có nhiều cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó kiểm soát của Nhân dân đối với quyền lực nhà nước mới chỉ là một kênh. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Đảng và Nhà nước ta cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi có hiệu quả và đúng mục đích trong hoạt động thực tiễn chính trị ở Việt Nam.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 17, tr. 719.
Nguyễn Thị Ưng
Tiến sĩ, Học viện Chính trị khu vực I