Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh
Bạn đang xem
20 trang mẫu
của tài liệu “Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò vô cùng quan trọng của quá trình giáo dục học sinh,được xem như là người cha người mẹ thứ hai trong cộng đồng trường học. Họ đóng vai trò quyết định thành công đến sự hình thành nhân cách học sinh kể từ khi học sinh bắt đầu đặt chân đến trường học, thông qua nhân cách của giáo viên chủ nhiệm mà học sinh có thể xem đó là tấm gương để soi rọi mình mỗi khi làm một việc gì sai trái. Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách. Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ giáo viên chủ nhiệm lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này chưa đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thờiỞ đâu đó, còn tồn tại chuyện học sinh đánh thầy cô giáo chủ nhiệm của mình; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút dép đánh học trò trong lớp, cho cán bộ lớp dùng roi dâu đánh bạn học hàng giờ, bắt học trò liếm ghế, bắt học sinh đi bằng đầu gối 100 vòng quanh lớp, bắt viết 100 bản tự kiểm điểm v.v... Ngược lại có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn v.v... Vì vậy, trong năm học 2012 - 2013, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh”. II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 1. Mục tiêu. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THCS. 2. Nhiệm vụ. - Nghiên cứu lý luận về các GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình như thế nào trong công tác giáo dục đạo đức HS và đã đạt kết quả như thế nào? - Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS trong trường THPT. - Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế. III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Khách thể. - Thực trạng và giải pháp cho vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS. 2. Đối tượng. - Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp. 3. Phạm vi nghiên cứu. - Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ vận dụng ở lớp 9C trường THCS Cao Viên. 4. Giả thuyết khoa học. - Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong trường THCS. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lý luận: + Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet. - Phương pháp quan sát: + Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS. - Phương pháp điều tra: + Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học sinh(CMHS), bạn bè và hàng xóm của HS. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: + Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường. + Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn. + Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình. - Phương pháp thử nghiệm: + Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp 9c Trường THCS Cao Viên. 6. Thời gian thực hiện. - Bắt đầu : 15/ 08 / 2012 - Kết thúc : 31 / 05 / 2013 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THCS Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp: -Người lãnh đạo lớp: người GVCN nhận mệnh lệnh từ hiệu trưởng có nhiệm vụ lãnh đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch dạy học giáo dục đề ra, làm cho tập thể này đồng thuận biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. -Người điều khiển lớp học: GVCN giúp hiệu trưởng điều phối công việc của các giáo viên bộ môn giảng dạy đối với học sinh mình phụ trách sao cho các môn học diễn ra đồng bộ hài hòa. -Người làm công tác phát triển lớp học. -Người làm công tác tổ chức lớp học( đặc biệt là họt động ngoài giờ lên lớp). -Người giúp hiệu trưởng giám sát lớp học: giám sát tư vấn, giám sát hỗ trợ, giám sát đánh giá. -Người giúp hiệu trưởng kiểm tra sự tu dưỡng rèn luyện của họ sinh lớp mình. -Người có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp: tình hình tổng hợp về rèn luyện của cả lớp và từng học sinh đến gia đình học sinh đến các bộ phận khác của nhà trường. Với tất cả các chức năng công việc trên có thể khẳng điịnh GVCN là một nhà quản lí, nhà quản lí không có dấu đỏ trong nhà trường phổ thong có sứ mệnh rất thiêng liêng. Đó là người thắp sáng nhân cách toàn vẹn của thế hệ trẻ. Khoa học giáo dục đã chứng minh các em học sinh trong quá trình giáo dục và hình thành nhân cách luôn chịu sự tác động của ba yếu tố: gia đình- nhà trường- xã hội. Mỗi yếu tố có chức năng riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ bổ sung hỗ trợ cho nhau. GVCN nằm trong yếu tố nhà trường. Ở gia đình bố mẹ là người nuôi dương con từ khi còn trong “trứng” nên bố mẹ là người rất hiểu tính nết, sở thích, sức khỏe của con mình nhưng không phải bố mẹ nào cũng đủ kinh nghiệm, thời gian, tri thức, phương pháp dạy con. Chẳng thế mà có câu “Dao sắc không gọt được chuôi”. Ở trường GVCN là người được giao nhiệm vụ theo dõi quản lí học sinh lớp mình. Do đó GVCN cũng là người thứ hai sau cha mẹ học sinh hiểu học sinh mình nhất. Trong những năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhần thấy rằng: người GVCN nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lí lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn.Đúng là”Mẹ nào con đó, tướng nào quân ấy”.Giáo viên đứng lớp nào cũng cấn chữ “Uy”. Nhưng chữ ‘Uy” của GVCN đối với học sinh thì cần hơn.Chữ ‘Uy’ ở đây là uy tín, là long kính trọng tin yêu, long khâm phục, lòng ngưỡng mộ đối với thầy... Thầy có chữ ‘Uy” thì thầy bảo, thầy nói thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi chữ ‘Uy” được hình thành từ cái nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động, trang phục, tư thế tác phong, cách cư xử... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của GVCN. Bên cạnh chữ “Uy” thì phải nói đến chữ “Tâm” của GVCN.Chữ “Tâm” ở đây được hiểu là long thương yêu trẻ đích thực là tâm huyết với công việc của mình.Người GVCN cần phải quản lí lớp giáo dục học sinh bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản than tôi: học sinh yêu quý thầy cô nào thì thích học thích vâng nghe theo lời thầy cô ấy.Một vấn đề khác đặt ra với GVCN là công tác tổ chức quản lí lớp.Trong công tác tổ chức có nhiều việc phải làm, nhưng theo tôi xây dựng “Vai trò tự quản của học sinh” là giường cột của vấn đề. Tại sao tôi nói như vậy? Vì: không có một GVCN nào suốt ngày ở lớp để quản lí học sinh. Chỉ có các em học sinh với các em hoci sinh ở bên nhau dài nhất. Các em sẽ biết mợi chuyện xảy ra ở lớp ở trường... nếu ta biết phát huy vai trò tự quản của học sinh của từng tổ trong lớp thì mọi hoạt động của học sinh sẽ tốt hơn.Qúa trình thực hiện vai trò tự quản chính lá quá trình thi đua tự hoàn thiện chính mình.( Một lần tôi đến trường muộn do hỏng xe. Vậy mà không giáo viên nào biết. Không có giáo viên mà lớp vẫn trật tự, lại có cán sự học tập chữa bài cho lớp. Tôi thầm nghĩ phong trào tự quản của lớp đã phát huy tác dụng.Phong trào tự quản từ đâu mà có? Nó được sinh ra từ GVCN lớp, do GVCN lớp giáo dục điều hành. Cái khó của phong trào tự quản là việc phát triển xây dựng nguồn đội ngũ cán bộ lớp, là việc xây dựng tổ chức thi đua.... lớp nào có phong trào tự quản tốt thì GVCN của lớp đó rất nhàn. Từ nhận thức về vai trò của GVCN trên nên tôi nghĩ người GVCN như người mẹ thứ hai, người mẹ ấy là một nhân tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách học trò. Nhưng thực tế nhiều người đã coi nhẹ và lẫn lộn họ với các giáo viên bộ môn(GVBM) khác. Ví dụ: hàng năm không làm nhiệm vụ bổ nhiệm chức vụ chủ nhiệm lớp, không công bố quyết định đó trước toàn trường, trước hội phụ huynh của trường, hiện nay gọi là ban đại diện hội CMHS mà chỉ ghi ở thời khóa biểu như mọi GV bình thường khác có giờ dạy. Đáng lẽ phải làm đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm tuỳ theo thành tích hoặc sai phạm mà họ mắc phải. Về mặt đánh giá xếp loại GV, nhiều cán bộ quản lý chỉ coi trọng chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả công tác quản lý lớp ở GVCN, lại có biểu hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi lớp có thành tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền, cụ thể là công của các cán bộ ngành dọc chứ chưa hẳn là của tập thể lớp do GVCN lãnh đạo. Tuy vậy cũng cần phải thấy trong thực tế có những GVCN yếu, vai trò của mình mờ nhạt nên dấu ấn của công tác đoàn thể sâu đậm hơn, vai trò của chính quyền bị lấn át, từ đó càng tạo ra sự nhìn nhận thiên lệch. Có nhiều GVCN lớp đặc biệt là chủ nhiệm trẻ chưa biết mình có một quyền hạn nên chưa ai dám làm là đi dự giờ các GVBM trong lớp khi mình thấy cần. GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học sinh theo quy định, được hưởng giờ công tác theo định mức quy định, có chăng loại sổ sách làm việc pháp quy trong hệ thống sổ sách của nhà trường. Từ đó nếu có nhiều chủ nhiệm lớp trong trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt được nhiều thành tựu đáng kể. II. Những yếu tố của GVCN lớp 1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt. Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng như hiệu trưởng, GVCN lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, trước hết GVCN phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm. Khô ... thân học sinh đau ốm. Nhẹ thì tôi vận động học sinh thân thiết đến thăm nhau. Nặng đi viện thì phối hợp với hội cha mẹ học sinh cùng cán bộ lớp và GVCN đến thăm hỏi kịp thời để từ đó giáo dục học sinh trong lớp có trách nhiệm, tinh thần tương thân, tương ái, thân thiện với nhau, biết quan tâm đồng cảm, chia sẻ buồn vui. Tôi chưa thể khẳng định 100% là học sinh trong lớp tôi trung thực dũng cảm, giàu tình yêu thương, quý mến nhau. Nhưng nhìn chung các em học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm đều bộc lộ sự thẳn thắn, khá đoàn kết trong mọi việc làm của mình. Đối với HS lớp cuối cấp THCS nên việc học như thế nào, học khối gì là rất quan trọng quyết định cho ngành nghề tương lai từng HS. GVCN phải thật sự gắn bó, quan tâm tới lớp mới nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết quả học tập, năng khiếu, tính cách của mỗi HS mà GVCN góp ý kiến với từng HS về việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình thật phù hợp. Qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, các HS sẽ tự tin không bỡ ngỡ trong việc lựa chọn nghề theo lực học của mình,theo sở thích rồi chọn đúng ngành để đi Tôi luôn dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người. Có những hôm tôi không nói gì cả mà chỉ kể cho các em nghe một mẩu chuyện trong sách, báo, internet mà tôi sưu tầm được để các em tự rút ra bài học cho mình. Mẫu biên bản sinh hoạt chủ nhiệm A. Yêu cầu giáo dục: -Kiểm điểm hoạt động tuần 7 và phương hướng kế hoạch tuần 8. -Các tổ tự nhận xét đánh giá việc thực hiện kế hoạch tuần trước, đưa ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục cho tuần sau. -Rèn cho học sinh kỹ năng tổ chức, hoạt động đánh giá, tổng kết, tham gia ý kiến xây dựng tập thể lớp. -Nâng cao ý thức trách nhiệm đối với phong trào của lớp. B. Nội dung sinh hoạt: *Đánh giá hoạt động: 1. Các tổ trưởng đọc và nhận xét kết quả thi đua của từng thành viên trong tổ. 2. Tổ trưởng nhận xét đánh giá chung. 3. Giáo viên đánh giá nhận xét: a) Đặc điểm nề nếp: - Ưu điểm: + Các học sinh đã có nhiêu tiến bộ trong việc thực hiện các nội quy quy định của trường lớp: đồng phục, khăn đỏ, ra vào lớp đúng thời gian, vệ sinh trong ngoài lớp sạch sẽ + Không có hiện tượng học sinh vô lễ với thầy cô, đánh nhau gây mất đoàn kết trong tập thể. + Không có hiện tượng học sinh ăn quà vặt xả rác bừa bãi. - Hạn chế: + Vẫn chưa tổ chức được sinh hoạt đầu giờ một cách có hiệu quả. + Hiện tượng nói chuyện vẫn còn diễn ra trong các lớp học. b) Học tập: *Ưu điểm: + Đa số học sinh đều có đầy đủ sách vở đồ dung học tập. + Một số học sinh có ý thức tốt trong việc học bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. + Nhiều học sinh đã tham gia phát biểu xây dựng bài rất sôi nổi: Hân, Kim Anh, Huynh, Hiệp, Long, Lan v..v *Hạn chế: + Hiện tượng học sinh thiếu sự chuẩn bị bài vẫn còn nhiều, hầu như các tiết học chỉ có vài em học bài cũ và làm bài tập trước khi đến lớp. + Đa số học sinh nam không tập trung trong các tiết học. c) Các hoạt động khác: * Ưu điểm: + Thể dục giữa giờ tham gia đầy đủ, thực hiện khá đều. + Tổ trực nhật làm tốt công tác vệ sinh trong và ngoài lớp. + Một số học sinh đã hoàn thành các khoản tiền đầu năm. + Đã tiến hành đại hội chi đội, bầu ban chấp hành chi đội mới và đại biểu dự đại hội liên đội. + Có 1 bạn được bầu vào ban chấp hành lien đội: Kim Anh. * Hạn chế: + Một số học sinh chưa có tinh thần ý thức trong việc xây dựng chỉ tiêu năm học. + Một số học sinh chưa thực hiện tốt việc thu nộp và ủng hộ: Bằng, Thuận, Sơn. II. Kế hoạch tuần 8: + Tiếp tục ổn định nề nếp học tập, sinh hoạt. + Khắc phục các mặt hạn chế tuần trước. + Thực hiện nghiêm túc nội quy của trường lớp. + Ban chấp hành chi đội mới lên kế hoạch hoạt động. + Mỗi học sinh phải nâng cao ý thức lên kế hoạch học tập nghiêm túc. + Bổ sung sách vở, dụng cụ học tập và đồ dung lớp. + Tiếp tục kế hoạch lao động vệ sinh và chăm sóc cây xanh đã được phân công V. Kết quả Sau khi thực hiện những biện pháp trên với lớp 9C, chỉ qua một học kì I năm học 2012-2013 nhưng lớp đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Đây là một trong những nhân tố quyết định thành tích lớp 9C đạt được. Cùng với việc duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp HS chủ động trong học tập. Lập sơ đồ lớp như trên đã đưa lại hiệu quả rõ rệt trong học tập của học sinh. Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo dõi, nhắc nhở các bạn trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu được GVBM quan tâm theo dõi và giúp đỡ nên đã có nhiều tiến bộ. Vì vậy, đã giúp HS từ bỏ thói quen thụ động, trông chờ, ỷ lại trong học tập, góp phần vào công cuộc đổi mới chống tiêu cực trong thi cử mà ngành giáo dục đang thực hiện. GVCN đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm trong việc phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường có hiệu quả về công tác giáo dục đạo đức cho HS yếu kém, HS cá biệt và loại bỏ được nguy cơ bỏ học giữa chừng. Ví dụ: HS Bùi Văn Sơn ,Nguyễn Viết Đạt, Nguyễn Xuân Dần, Lê Văn Tú. Lớp 9C đảm bảo sĩ số. Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt lớp giúp HS luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong cuộc sống. Trong học kì I của năm học này, lớp 9C đạt được những thành tích như sau: - Giải nhất thi đua đợt 2 do Đoàn trường phát động nhân dịp chào mừng ngày 20-11; - Được chọn tham gia công diễn văn nghệ chào mừng ngày 20-11; - Kết quả xếp loại thi đua toàn trường trong học kì I lớp đạt giải nhất; - Kết qủa xếp loại thi đua trong 2 tuần đầu học kì II : nhất và nhì; - Lớp 9C là một trong những chi đội vững mạnh của Liên đội trường. PHẦN III. KẾT LUẬN I. Bài học kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) này, qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng giáo dục đạo đức HS thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”. Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS, Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các phong trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng . Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp truởng”. Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi trường học Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề cần phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THCS”. II. Kiến nghị Đây là lần đầu tiên tôi viết SKKN về đề tài công tác GVCN lớp nên thật sự tôi gặp không ít khó khăn, nhưng chính khó khăn ấy lại là một điều hay bởi qua đó tôi đã trưởng thành hơn trong nghề nghiệp với công tác này. Bởi vậy, năm học sau, tôi xin đề nghị, thầy hiệu trưởng nên chỉ đạo, khuyến khích mỗi GV viết SKKN(không nhất thiết 1 SKKN/1GV). GVCN lớp đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách HS. Thực tế ở các nhà trường vẫn có những GVCN tốt và giỏi tuy nhiên chưa có nhiều GVCN tốt như ta mong muốn. Điều này làm hạn chế thành tựu giáo dục và tăng thêm các lo lắng. Khi ngày nay đang gia tăng bạo lực học đường, sự tha hóa học đường mà chỉ vì sự non nớt trong phong cách quản lí của GVCN đã dẫn đến kết quả xấu trước dư luận xã hội. Nêu ra điều này chúng tôi muốn kiến nghị: Lãnh đạo nghành, cục nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, các vụ nghành học cần phối hợp chỉ đạo biên soạn tài liệu nghiệp vụ cho công tác giáo viên chủ nhiệm. Phải coi tài liệu này quan trọng như hoặc hơn tài liệu giáo khoa bộ môn. Học viện quản lí giáo dục, các khoa quản lí các trường sư phạm, các trường ĐH Sư Phạm cần phối hợp với nhau thực hiện được các lớp tập huấn về công tác ngày trên cả phương pháp luận về giáo dục học và phương pháp luận về quản lí giáo dục. Phương pháp luận về quản lí giáo dục trong các tài liệu bồi dưỡng các GVCN hiện nay vẫn chưa đủ “độ”. Do vậy tài liệu còn thiếu cuốn hút cần thiết. Nên kịp thời tổng kết các cương giáo viên làm công tác GVCN tốt và phổ biến các gương này đến đông đảo các nhà trường. GVCN cần phải quan niệm là những người quản li không có dấu đỏ xong lực lượng này lại vô cùng mạnh mẽ vì họ gần gũi với học sinh, gia đình học sinh tạo nên nhân cách- nhân lực cho đất nước đi vào hội nhập. Không nên xem nhẹ lực lượng này và không nên hài long với việc bồi dưỡng họ như ta đang làm. Việc cải thiện chính sách cho GVCN cũng nên lưu tâm hơn, đặc biệt là sự khen thưởng với các GVCN hết long về sự tiến bộ của học sinh. Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình giáo dục đạo đức HS trong vai trò GVCN lớp. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt SKKN cùng các đồng nghiệp . Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời gian để đọc bài viết này của tôi! Cao Viên ngày, 25/3/2013 GV viết SKKN Đào Thị Thanh Thúy TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Wedsite : 2. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Hà Nội 1996 - PTS. Phạm Viết Vượng. 3. Tâm lí học đại cương - Hà Nội 1995 - PGS. Nguyễn Quang Uẩn(chủ biên). 4. Giáo dục học đại cương II - Hà Nội 1996 - GS. Đặng Vũ Hoạt. 5. Thực hành về giáo dục học - Hà Nội 1995 - PTS. Nguyễn Đình Chỉnh. 6. Điều lệ trường trung học - Bộ GD & ĐT. 7. Thông tư 23/29 v/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THPT - Bộ GD & ĐT. 8. Luật GD 2005 - Bộ GD & ĐT. 9. Pháp lệnh cán bộ công chức - Bộ GD & ĐT. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Lý do chọn đề tài 01 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 02 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT 04 Đặc điểm lớp 12/5 06 Biện pháp thực hiện 07 Sơ đồ tổ chức lớp 09 Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội 10 Tiêu chuẩn xếp loại hạnh kiểm 14 Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm 15 Mẫu biên bản sinh hoạt chủ nhiệm 16 Kết quả 17 PHẦN III. KẾT LUẬN Bài học kinh nghiệm 19 Kiến nghị 20 Tài liệu tham khảo 21 Mục lục 22