Vai trò của đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viên mầm non hiện nay – Tài liệu text

Vai trò của đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viên mầm non hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 4 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131

VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN MẦM NON HIỆN NAY
Nguyễn Thu Thủy – Trường Đại học Hạ Long
Ngày nhận bài: 05/5/2019; ngày chỉnh sửa: 12/5/2019; ngày duyệt đăng: 25/5/2019.
Abstract: In the care and education of preschool children, the professional ethics of preschool
teachers is of special importance, it also a motivation for this team to gradually improve their
personality and overcome all difficulties in work to complete the strategy of “planting people”.
The article addresses the issue of professional ethics and the importance of professional ethics for
preschool teachers today, serving as a basis for each preschool teacher to cultivate and practice to
meet requirements of the preschool education in the current period.
Keywords: Preschool teacher, professional ethics, preschool children.
1. Mở đầu
Trong giáo dục (GD), người thầy có vai trò đặc biệt
quan trọng, đây là lực lượng có nhiệm vụ xây dựng và
phát triển con người, đào tạo cán bộ cho nước nhà; là
“chiến sĩ” trên mặt tri thức, khoa học và văn hóa, có trách
nhiệm trang bị cho thế hệ trẻ kho tàng tri thức nhân loại,
hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân
loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng
lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã
hội. Để hoàn thành trọng trách cao cả đó, ngoài việc có
trình độ am hiểu tri thức khoa học sâu rộng, người thầy
còn cần có phẩm chất đạo đức trong sáng, có lòng yêu
nghề, yêu học sinh.
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non (GDMN), đạo đức
nghề nghiệp (ĐĐNN) có vai trò rất quan trọng, được coi
là nền tảng của các chuẩn mực đạo đức mà giáo viên

mầm non (GVMN) cần có khi hoạt động trong lĩnh vực
GD và chăm sóc trẻ mầm non (MN), quy định và điều
chỉnh hành vi ứng xử, thái độ của GVMN nhằm hình
thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.
Bài viết đề cập ĐĐNN của GVMN và phân tích vai trò
của ĐĐNN đặc thù đối với GVMN, là căn cứ để GVMN
giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp mình, đóng
góp vào sự nghiệp GDMN, đáp ứng yêu cầu của hoạt động
nghề nghiệp và đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non
Theo điều 3 “Tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp” của
Thông tư liên tịch số 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV
ngày 14/9/2015 về “Quy định mã số, tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp cho giáo viên mầm non” [1], và điều
5 “Các yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống của GVMN” của Quyết định số
02/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về
“Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non” ngày
22/01/2008, GVMN cần có các phẩm chất cơ bản: – Chấp

hành chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước…; – Quý trẻ, yêu nghề; kiên nhẫn, biết
tự kiềm chế; có tinh thần trách nhiệm cao; có kiến thức,
kĩ năng cần thiết… – Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất,
danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu, đối xử công
bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; đoàn kết, tương
trợ, hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp… [2].
Từ những yêu cầu trên, theo tác giả, ĐĐNN của
GVMN là một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn

mực đạo đức mà GVMN cần có khi hoạt động trong lĩnh
vực GD và chăm sóc trẻ MN, quy định, điều chỉnh nhận
thức, hành vi ứng xử, thái độ của GVMN nhằm hình
thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.
GDMN là bước khởi đầu rất quan trọng để trẻ hình
thành và phát triển nhân cách, vì vậy, hoạt động lao động
sư phạm của GVMN mang tính đặc thù so với lao động
của giáo viên các bậc học khác. Trong hoạt động đó,
nhân tố nền tảng chi phối hoạt động sư phạm của GVMN
là đạo đức người thầy. Chính đặc thù này đã tạo nên sự
khác biệt giữa ĐĐNN của GVMN với ĐĐNN các ngành
khác, biểu hiện như sau:
– GVMN phải hết mực quý trẻ, thiết tha với nghề. Đây là
tố chất cơ bản nhất trong đạo đức nghề nghiệp của GVMN.
Cốt lõi trong ĐĐNN của GVMN là quan hệ giữa
GVMN với trẻ MN. GVMN là những người thầy đầu
tiên dẫn dắt học trò của mình trở thành con người có đạo
đức, có trí tuệ. Có hai khái niệm trong đặc thù lao động và
có liên quan đến bản chất nhân cách của người GVMN là:
“mẫu dưỡng” và “mẫu giáo” [3; tr 38]. “Mẫu dưỡng” có
nghĩa là chăm sóc trẻ như mẹ chăm sóc con: bồng bế, vuốt
ve, cho ăn, cho uống, tắm rửa… tạo nên mối quan hệ ruột thịt
âu yếm, yêu thương. “Mẫu giáo” là dạy dỗ, chăm sóc trẻ
như mẹ dạy dỗ, chăm sóc con. Dạy trẻ những thói quen tốt
và kĩ năng sống gần gũi, cần thiết. Để chăm sóc và GD trẻ
em dưới 6 tuổi phát triển tốt về thể chất, tinh thần, mỗi
GVMN phải dành trọn công sức và tâm huyết của mình, hết

128

Email: [email protected]

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131

lòng yêu thương học sinh. Chính tình yêu thương trẻ hết
mình là động lực thúc đẩy mỗi GVMN luôn gắn bó, thiết
tha với học sinh của mình, tạo nên mối quan hệ mật thiết
giữa cô giáo và trẻ, vì đây vừa là quan hệ thầy – trò, vừa là
quan hệ bạn bè, vừa là quan hệ mẹ – con trong gia đình.
GVMN phải như “người mẹ hiền thứ hai”, biết yêu thương,
bao dung, vị tha và độ lượng, gắn bó máu thịt với trẻ mầm
non. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn
dặn: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được
thế thì phải yêu trẻ” [4; tr 509]. Chính vì tình cảm thiêng
liêng này mà người GVMN không nề hà bất cứ công việc
nào để dành cho trẻ những điều tốt đẹp nhất. Tình yêu con
trẻ là sức mạnh thôi thúc người GVMN gắn bó thiết tha với
nghề. Họ tôn trọng tri thức, lấy “dạy chữ, dạy người” làm lẽ
sống; luôn coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác
lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, bằng
học vấn và cống hiến. “Yêu nghề có thiết tha, liên tục mới
quyết tâm vũ trang cho mình về kiến thức đạo đức để làm
tròn nhiệm vụ đào tạo con người mới cho Tổ quốc, cho chế
độ” [5; tr 14]. Chỉ khi nào người giáo viên tự hào về nghề
của mình, trân trọng, thiết tha muốn gắn bó cả đời mình với
nghề dạy học và dạy người thì khi đó mới tự ý thức và trách
nhiệm với nghề.

– Biết kiên nhẫn, tự kiềm chế cảm xúc. Kiên nhẫn là khả
năng tiếp tục làm việc đã định một cách bền bỉ, không nản
lòng, không ngừng phấn đấu để đạt mục tiêu đặt ra. Người
có tính kiên nhẫn là người chiến thắng được chính mình.
Đặc thù nghề GVMN là một nghề vất vả, bởi lẽ thời
gian lao động của GVMN mang sắc thái riêng, không
giống với thời gian lao động hành chính và khác với thời
gian lao động sư phạm của giáo viên phổ thông. Thời
gian lao động của GVMN mang tính liên tục, kế tiếp,
vượt ra ngoài khuôn khổ của tám giờ lao động hành
chính. Đó là khoảng thời gian giáo viên gắn với nhiệm
vụ chăm sóc, dạy dỗ và GD trẻ ở trường mầm non. Giáo
viên phải đi sớm về muộn so với giờ giấc lao động của
các bậc cha mẹ đến đón trẻ. Đối tượng GD của nghề khác
với các cấp học khác, đó là đối tượng tác động rất đặc
biệt – trẻ em dưới 6 tuổi, là tuổi bắt đầu hình thành nhân
cách, lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ, hình thành phẩm
chất đạo đức con người. Ở lứa tuổi này, trẻ MN còn bé
bỏng, hồn nhiên, nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Bởi vậy,
GVMN phải luôn âu yếm, vui vẻ, ngọt ngào với trẻ, kiên
nhẫn GD giúp trẻ phân biệt các hành vi đúng – sai; đồng
thời phải biết tự kiềm chế sự bực tức, nóng giận khi trẻ
tỏ ra bướng bỉnh không vâng lời hoặc có lỗi với bạn, hay
vụng về làm đổ vỡ đồ chơi, đồ dùng sinh hoạt… GVMN
phải làm chủ được bản thân, điều khiển được cảm xúc và
hành vi của mình. Chính tính kiên nhẫn giúp GVNM làm
việc bằng tinh thần trách nhiệm cao nhất, không dễ khuất
phục trước khó khăn, không dễ thất bại.

– Có tinh thần trách nhiệm cao trong nghề nghiệp.

GVMN khi được phân công công việc nào cũng đều phải
thấy được công việc dạy học của mình là rất vinh quang,
đáng tự hào, phải nêu cao ý thức, thực hiện hết sức mình để
hoàn thành một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. GVMN
phải tận tâm, tận lực, không nề hà bất cứ công việc gì, mang
hết khả năng sẵn có của mình ra làm bằng được, với trách
nhiệm cao nhất, theo tinh thần “Đã phụ trách việc gì thì
quyết làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó
nhọc, không sợ nguy hiểm” [4; tr 634]. GVMN phải hết
mình chăm sóc trẻ mầm non như: xúc cháo, bón cơm… dỗ
cho các cháu ăn hết suất, vệ sinh sạch sẽ cho các cháu khi đi
tiểu, đi tiêu, khi bị bệnh tật; dành thời gian chơi cùng trẻ.
Tinh thần trách nhiệm cao với công việc của GVMN
còn thể hiện ở việc luôn chấp hành tốt quy định của
ngành, của nhà trường, không vi phạm đạo đức nhà giáo.
Đồng thời, phải ra sức suy nghĩ tìm tòi, học tập nâng cao
trình độ, đề ra những cách thức cải tiến trong công tác
chăm sóc và giáo dục trẻ; áp dụng phương pháp, hình
thức giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi MN để nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng được mong muốn của phụ
huynh học sinh và yêu cầu của xã hội.
– Có kĩ năng ứng xử sư phạm khéo léo. Ứng xử khéo
léo là có những cử chỉ, hành động, lời lẽ thích hợp làm
người khác vừa lòng, để đạt được kết quả như mong
muốn trong quan hệ đối xử. Đây là yêu cầu nghề quan
trọng đối với mỗi giáo viên, đặc biệt là GVMN; là khả
năng người GVMN vận dụng linh hoạt các phương pháp
GD vào chăm sóc và GD trẻ MN. Với mỗi một trẻ có tâm
lí, tính cách khác nhau, GVMN cần linh hoạt trong ứng
xử: có trẻ ưa nói ngọt, dịu dàng, tình cảm; ngược lại có

trẻ GVMN phải cứng rắn, nghiêm nghị khi yêu cầu thực
hiện các nội dung giáo dục. Trong giao tiếp với trẻ mầm
non, GVMN phải khéo léo “khen nhiều, chê ít”, hay
“khen chín chỉ chê một”, tránh làm tổn thương lòng tự
trọng của trẻ, luôn hiểu trẻ muốn gì và làm gì để từng
bước thỏa mãn nhu cầu những hợp lí đó. Trong ứng xử
với trẻ, cô giáo phải lấy thành tâm, thiện ý làm gốc cho
hành vi của mình. Từng ánh mắt, hành vi, cử chỉ của
GVMN toát lên vẻ chân thành đó.
Bên cạnh đó, GVMN còn phải có kĩ năng giao tiếp với
các bậc phụ huynh. Việc giữ mối quan hệ thân thiện cùng
khả năng giao tiếp tốt với các bậc cha mẹ giúp giáo viên
có thể hiểu hơn về tâm tư, suy nghĩ của con trẻ và hiểu
được những mong muốn của phụ huynh. Đồng thời, điều
này sẽ giúp giáo viên truyền đạt tốt hơn các thông tin về
hoạt động của nhà trường dành cho trẻ, phổ biến cách thức
chăm sóc và nuôi dạy trẻ cho phụ huynh một cách tốt nhất.
Kĩ năng ứng xử khéo léo của GVMN còn thể hiện trong
việc xây dựng mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp. Tinh thần
đoàn kết, chân thành, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ là nguyên tắc

129

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131

chính trong giao tiếp mối quan hệ này. Có thái độ cầu thị,
khiêm tốn, không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các thế hệ

đi trước; bao dung, gần gũi giúp đỡ thế hệ đi sau mình.
Nhà GD học K.D.Usinxki đã khẳng định: muốn GD
con người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu con
người về mọi mặt. Bởi vậy, muốn đạt được hiệu quả GD
thì GVMN phải hiểu rõ đặc điểm phát triển của trẻ, lựa
chọn đúng những tác động sư phạm mềm dẻo, phù hợp
từng đối tượng, phát huy tối đa tiềm năng của trẻ và vai trò
chủ đạo của mình. Muốn vậy, GVMN phải được trang bị
hệ thống các phương pháp sư phạm để vận dụng linh hoạt
trong từng hoàn cảnh nhằm đạt hiệu quả GD cao.
2.2. Vai trò của đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viên
mầm non
2.2.1. Đạo đức nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao trình độ, năng lực công tác của giáo viên mầm non
GVMN – người “chiến sĩ” trên mặt trận tri thức, khoa
học và văn hóa muốn thực hiện được nhiệm vụ GD của
mình cần trau dồi cả “đức” và “tài” hay phẩm chất và
năng lực. Phẩm chất là yếu tố nền tảng có ý nghĩa định
hướng, định vị cho mỗi người, là một trong những điều
kiện chủ quan để phát triển và sử dụng tốt năng lực. Năng
lực là yếu tố quan trọng, hữu dụng đối với xã hội, thể hiện
tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân. Trong công việc
giảng dạy, năng lực trí tuệ được thể hiện ở trình độ học
vấn, trình độ tư duy, khả năng suy nghĩ và hành động hợp
lí, khả năng thích nghi với những biến đổi của hoàn cảnh.
“Đức” thể hiện trong ĐĐNN của GVMN chính là lòng
yêu nghề, yêu trẻ, tinh thần tận tụy với công việc; thực hành
tốt các phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong công việc và cuộc sống hàng ngày; có tinh thần đoàn
kết, hợp tác với đồng nghiệp, chấp hành tốt kỉ luật của

ngành, của nhà trường, hoàn thành trách nhiệm công dân.
Đối tượng chăm sóc và GD của GVMN là trẻ em từ
3-6 tuổi. Ở lứa tuổi này, trẻ chưa tự chăm sóc bản thân
mình, tư duy logic chưa phát triển, cách hành xử thường
dựa trên bản năng nên phụ thuộc rất nhiều vào sự chăm
sóc và GD của cô giáo và nhà trường. Do đó, GVMN
phải có tính kiên nhẫn trước những hành động non trẻ đó,
tỉ mỉ, tận tình, định hướng suy nghĩ và hành động đúng
đắn cho trẻ. Nếu cô giáo thiếu tôn trọng trẻ, quát mắng,
định kiến với trẻ sẽ làm tổn thương trẻ về mặt tinh thần,
làm mất đi sự mạnh dạn, hồn nhiên, những xúc cảm tích
cực ở trẻ, khiến trẻ sợ sệt, mặc cảm, thiếu tự tin ở bản
thân. Nếu lòng yêu nghề, yêu trẻ không đủ lớn cùng với
sự thiếu kiên nhẫn, trước áp lực nghề nghiệp đặc thù,
GVMN rất dễ vi phạm đạo đức nghề giáo, vi phạm lí
tưởng mục tiêu “tất cả vì học sinh thân yêu” của mình.
Chính ĐĐNN là động lực giúp cho người GVMN
hăng say học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tri thức
khoa học; không ngừng đổi mới chất lượng giờ giảng,

sáng tạo đồ dùng dạy học giúp trẻ dễ quan sát, nhớ lâu
bài học. Bởi vậy, việc phân chia “đức”, “tài” chỉ có ý
nghĩa tương đối. Trong nghề dạy học, nhất là ở bậc học
MN, “tài” và “đức” luôn phải song hành; GVMN có
chuẩn mực về đạo đức cần có chuyên môn vững vàng;
ngược lại, một người GVMN đạt được nhiều danh hiệu
thi đua cao quý, nhiều sáng kiến kinh nghiệm lại càng
cần giữ gìn và phát huy đạo đức nhà giáo. Như vậy, ở
GVMN phải hội đủ cả đạo đức và năng lực chuyên môn
để làm tốt nhiệm vụ của mình là đặt những viên gạch đầu

tiên nhằm hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ, vì “tất cả
những cái gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành người
lớn đều thu nhận được từ trong thời thơ ấu” [6; tr 235].
Chỉ có toàn tâm, toàn ý, không ngừng học tập trau dồi
nghề nghiệp, GVMN mới thể hiện được đạo đức của mình
trong công việc; ngược lại, GVMN tự thấy bổn phận trách
nhiệm của mình tất yếu phải ra sức học tập, rèn luyện về
đạo đức, phẩm chất, nhân cách, thể hiện qua suy nghĩ,
hành động của bản thân trong GD trẻ MN. Để làm được
điều đó, mỗi nhà giáo một mặt phải biết học tập những giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, làm chuẩn mực cho các
tác động sư phạm của mình; mặt khác phải tích cực rèn
luyện nhằm hình thành những tính cách và phẩm chất
ĐĐNN cần thiết, phù hợp với các hoạt động sư phạm.
Chính trong quá trình chủ động, tích cực tự GD, rèn luyện
như vậy, nhân cách của GVMN được hình thành, phát
triển, được kiểm chứng và khẳng định trên thực tế. Theo
nghĩa đó, ĐĐNN của GVMN là yếu tố cơ bản hình thành
và củng cố nền tảng nhân cách người thầy.
2.2.2. Đạo đức nghề nghiệp là mục tiêu, động lực để giáo
viên mầm non vượt qua khó khăn, quyết tâm thực hiện
chiến lược “trồng người” trong giáo dục mầm non
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ĐĐNN chịu
sự ảnh hưởng và tác động của tồn tại xã hội, đồng thời cũng
tác động mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau hơn 30
năm đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện CNH, HĐH, đất nước ta đã có
bước phát triển vượt bậc, điều kiện sống của nhân dân được
sự cải thiện rõ rệt về mọi mặt. Chính sự tiến bộ đó đã đặt ra
yêu cầu ngày càng cao về chất lượng GDMN; công tác xã

hội hóa GDMN đã dành được sự quan tâm của nhiều tổ
chức xã hội. Hàng loạt trường MN chất lượng cao ra đời
nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội. Tại các
trường MN công, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại,
thông minh, khu vui chơi của trẻ cũng được quan tâm trang
bị đồng bộ. Những điều kiện này đòi hỏi GVMN phải luôn
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
thường xuyên bồi dưỡng lí tưởng và ĐĐNN để đáp ứng với
yêu cầu ngày càng cao của ngành GD-ĐT và của xã hội.
Thực tế, nghề GVMN là một nghề vất vả, đặc thù,
nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ, tận tâm, cẩn thận trong quá trình

130

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131

chăm sóc, GD trẻ MN. GVMN phải thường xuyên uốn
nắn, sửa chữa cho trẻ từng động tác, hành vi, chăm sóc
từng miếng ăn, giấc ngủ cho trẻ. Công việc trên lớp chiếm
phần lớn thời gian trên lớp; ngoài giờ dạy trên lớp, họ còn
phải làm đồ dùng dạy học trực quan, soạn giáo án, hồ sơ
chuẩn bị cho buổi dạy sau. Với tình yêu nghề nghiệp, các
cô vẫn yêu thương trẻ MN, yêu trường, luôn cống hiến hết
tài năng và niềm đam mê nghề nghiệp cho sự nghiệp GD
con người. Đó là động lực bên trong thôi thúc người
GVMN phấn đấu không ngừng rèn luyện chuyên môn,
trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng hướng tới mục tiêu

hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.
Mặt khác, dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều
loại hình GDMN ra đời đáp ứng yêu cầu của xã hội, của
người dân. Ở vùng sâu, vùng xa, thu nhập của đồng bào
dân tộc ít người còn thấp, sự quan tâm đến công tác chăm
sóc, GD trẻ MN chưa cao. Ngược lại, ở thành phố, đồng
bằng, người dân có thu nhập sẵn sàng chọn những loại
hình GDMN chất lượng cao cho con em họ, đi liền với
đó là những đòi hỏi khắt khe hơn đối với đội ngũ GVMN.
Chính ý thức ĐĐNN đã chi phối hoạt động sư phạm của
GVMN, dù ở bất cứ môi trường GD nào, họ vẫn tích cực
tham gia vào sự nghiệp GD-ĐT của nước nhà với ý thức
trách nhiệm cao, tự nguyện, tự giác trong chăm sóc và
GD trẻ mà không chịu sức ép của bất kì tác động nào bên
ngoài. ĐĐNN đã giúp GVMN luôn chủ động, sáng tạo,
tự giác rèn luyện các phẩm chất đạo đức nhà giáo, tự giác
chấp hành các nội quy của ngành, của trường, hoàn thành
nhiệm vụ được giao trong mọi hoàn cảnh.
2.2.3. Đạo đức nghề nghiệp có tác dụng giáo dục, nêu
gương, xây dựng các giá trị đạo đức mới cho giáo viên
mầm non
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất nhấn mạnh
đến “nêu gương” trong GD. Người khẳng định, trong GD
trẻ em, phương pháp “nêu gương” có vai trò rất quan
trọng, bởi vì “trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán
bộ phụ trách… phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm”
[7; tr 77], “học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt
hay xấu” [8; tr 239]. Nhân cách học sinh phản ánh trực tiếp
kết quả của quá trình GD của nhà trường, gia đình và xã
hội. Người GVMN có ĐĐNN sẽ luôn tự soi mình vào,

nhắc nhở bản thân, phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt
yếu, kém; có ứng xử và hành vi phù hợp với chuẩn mực
nghề giáo, thống nhất giữa “lời nói với việc làm”, “phải có
sự kết hợp giữa nhận thức và thực tiễn” là tấm gương sáng
về nhân cách, đạo đức cho trẻ MN học tập theo. Tuy nhiên,
để hình thành được ĐĐNN thì đối với mỗi GVMN phải
trải qua một cuộc chiến “khổng lồ”, phải thường xuyên
suốt đời, kiên trì, bền bỉ rèn luyện cho mình các phẩm chất
đạo đức nhà giáo, không được chủ quan, tự mãn, bằng
lòng với kết quả mà mình đã đạt được.

Mặt khác, ĐĐNN là “bộ lọc” giúp mỗi GVMN lựa
chọn, tiếp thu những giá trị tiến bộ, loại bỏ những giá trị
thấp kém trong đời sống hàng ngày. Xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế đã làm xuất hiện và thúc đẩy quá trình
xâm nhập giữa các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền
thống và hiện đại, giữa tính dân tộc và tính quốc tế;
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ
bị lấn át bởi các giá trị ngoại lai. Vì thế, GD ĐĐNN giúp
người GVMN giữ vững lập trường tư tưởng chính trị
trước những biến động của cuộc sống, bồi đắp lí tưởng
cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào con đường đi lên
CNXH của dân tộc; xây dựng các phẩm chất đạo đức tốt
đẹp của nhà giáo: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
từng bước bồi dưỡng lối sống lành mạnh có văn hóa phù
hợp với chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam.
3. Kết luận
ĐĐNN là một trong những “thước đo” về năng lực đối
với GVMN, là động lực tinh thần giúp người GVMN làm
tròn trách nhiệm “dạy người”, “dạy chữ” của mình, xứng

đáng là “anh hùng vô danh” trong sự nghiệp phát triển GDĐT, góp phần quan trọng trong bồi dưỡng và phát triển nhân
cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ ở những giai đoạn đầu tiên. Ý
thức được vai trò quan trọng của ĐĐNN, mỗi GVMN cần
tích cực rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất và năng lực để
đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày càng phát triển.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT – Bộ Nội vụ (2015). Thông tư liên tịch
số 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/9/2015
quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
giáo viên mầm non.
[2] Bộ trưởng Bộ GD-ĐT (2008). Quy định về chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mầm non (ban hành kèm theo
Quyết định số 02 /2008/QĐ-BGDĐT ngày
22/01/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[3] Hồ Lam Hồng (2008). Nghề giáo viên mầm non.
NXB Giáo dục.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5, 1996). NXB Chính trị
Quốc gia – Sự thật.
[5] Phạm Văn Đồng (1980). Mấy vấn đề về văn hóa
giáo dục. NXB Sự thật.
[6] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) – Nguyễn Thị Như
Mai – Đinh Thị Kim Thoa (2013). Tâm lí học trẻ em
– lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư phạm.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập (tập 12, 1996). NXB Chính
trị Quốc gia – Sự thật.
[8] Đào Thanh Hải – Minh Tiến (sưu tầm, tuyển chọn,
2005). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. NXB
Lao động.
[9] Trần Bá Hoành (2010). Vấn đề giáo viên – Những
nghiên cứu lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Sư phạm.

131

mầm non (GVMN) cần có khi hoạt động trong lĩnh vựcGD và chăm sóc trẻ mầm non (MN), quy định và điềuchỉnh hành vi ứng xử, thái độ của GVMN nhằm hìnhthành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.Bài viết đề cập ĐĐNN của GVMN và phân tích vai tròcủa ĐĐNN đặc thù đối với GVMN, là căn cứ để GVMNgiữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp mình, đónggóp vào sự nghiệp GDMN, đáp ứng yêu cầu của hoạt độngnghề nghiệp và đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.2. Nội dung nghiên cứu2.1. Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm nonTheo điều 3 “Tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp” củaThông tư liên tịch số 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNVngày 14/9/2015 về “Quy định mã số, tiêu chuẩn chứcdanh nghề nghiệp cho giáo viên mầm non” [1], và điều5 “Các yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạođức, lối sống của GVMN” của Quyết định số02/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về“Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non” ngày22/01/2008, GVMN cần có các phẩm chất cơ bản: – Chấphành chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, phápluật của Nhà nước…; – Quý trẻ, yêu nghề; kiên nhẫn, biếttự kiềm chế; có tinh thần trách nhiệm cao; có kiến thức,kĩ năng cần thiết… – Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất,danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu, đối xử côngbằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; đoàn kết, tươngtrợ, hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp… [2].Từ những yêu cầu trên, theo tác giả, ĐĐNN củaGVMN là một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩnmực đạo đức mà GVMN cần có khi hoạt động trong lĩnhvực GD và chăm sóc trẻ MN, quy định, điều chỉnh nhậnthức, hành vi ứng xử, thái độ của GVMN nhằm hìnhthành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.GDMN là bước khởi đầu rất quan trọng để trẻ hìnhthành và phát triển nhân cách, vì vậy, hoạt động lao độngsư phạm của GVMN mang tính đặc thù so với lao độngcủa giáo viên các bậc học khác. Trong hoạt động đó,nhân tố nền tảng chi phối hoạt động sư phạm của GVMNlà đạo đức người thầy. Chính đặc thù này đã tạo nên sựkhác biệt giữa ĐĐNN của GVMN với ĐĐNN các ngànhkhác, biểu hiện như sau:- GVMN phải hết mực quý trẻ, thiết tha với nghề. Đây làtố chất cơ bản nhất trong đạo đức nghề nghiệp của GVMN.Cốt lõi trong ĐĐNN của GVMN là quan hệ giữaGVMN với trẻ MN. GVMN là những người thầy đầutiên dẫn dắt học trò của mình trở thành con người có đạođức, có trí tuệ. Có hai khái niệm trong đặc thù lao động vàcó liên quan đến bản chất nhân cách của người GVMN là:“mẫu dưỡng” và “mẫu giáo” [3; tr 38]. “Mẫu dưỡng” cónghĩa là chăm sóc trẻ như mẹ chăm sóc con: bồng bế, vuốtve, cho ăn, cho uống, tắm rửa… tạo nên mối quan hệ ruột thịtâu yếm, yêu thương. “Mẫu giáo” là dạy dỗ, chăm sóc trẻnhư mẹ dạy dỗ, chăm sóc con. Dạy trẻ những thói quen tốtvà kĩ năng sống gần gũi, cần thiết. Để chăm sóc và GD trẻem dưới 6 tuổi phát triển tốt về thể chất, tinh thần, mỗiGVMN phải dành trọn công sức và tâm huyết của mình, hết128Email: [email protected]ạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131lòng yêu thương học sinh. Chính tình yêu thương trẻ hếtmình là động lực thúc đẩy mỗi GVMN luôn gắn bó, thiếttha với học sinh của mình, tạo nên mối quan hệ mật thiếtgiữa cô giáo và trẻ, vì đây vừa là quan hệ thầy – trò, vừa làquan hệ bạn bè, vừa là quan hệ mẹ – con trong gia đình.GVMN phải như “người mẹ hiền thứ hai”, biết yêu thương,bao dung, vị tha và độ lượng, gắn bó máu thịt với trẻ mầmnon. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căndặn: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm đượcthế thì phải yêu trẻ” [4; tr 509]. Chính vì tình cảm thiêngliêng này mà người GVMN không nề hà bất cứ công việcnào để dành cho trẻ những điều tốt đẹp nhất. Tình yêu contrẻ là sức mạnh thôi thúc người GVMN gắn bó thiết tha vớinghề. Họ tôn trọng tri thức, lấy “dạy chữ, dạy người” làm lẽsống; luôn coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xáclập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, bằnghọc vấn và cống hiến. “Yêu nghề có thiết tha, liên tục mớiquyết tâm vũ trang cho mình về kiến thức đạo đức để làmtròn nhiệm vụ đào tạo con người mới cho Tổ quốc, cho chếđộ” [5; tr 14]. Chỉ khi nào người giáo viên tự hào về nghềcủa mình, trân trọng, thiết tha muốn gắn bó cả đời mình vớinghề dạy học và dạy người thì khi đó mới tự ý thức và tráchnhiệm với nghề.- Biết kiên nhẫn, tự kiềm chế cảm xúc. Kiên nhẫn là khảnăng tiếp tục làm việc đã định một cách bền bỉ, không nảnlòng, không ngừng phấn đấu để đạt mục tiêu đặt ra. Ngườicó tính kiên nhẫn là người chiến thắng được chính mình.Đặc thù nghề GVMN là một nghề vất vả, bởi lẽ thờigian lao động của GVMN mang sắc thái riêng, khônggiống với thời gian lao động hành chính và khác với thờigian lao động sư phạm của giáo viên phổ thông. Thờigian lao động của GVMN mang tính liên tục, kế tiếp,vượt ra ngoài khuôn khổ của tám giờ lao động hànhchính. Đó là khoảng thời gian giáo viên gắn với nhiệmvụ chăm sóc, dạy dỗ và GD trẻ ở trường mầm non. Giáoviên phải đi sớm về muộn so với giờ giấc lao động củacác bậc cha mẹ đến đón trẻ. Đối tượng GD của nghề khácvới các cấp học khác, đó là đối tượng tác động rất đặcbiệt – trẻ em dưới 6 tuổi, là tuổi bắt đầu hình thành nhâncách, lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ, hình thành phẩmchất đạo đức con người. Ở lứa tuổi này, trẻ MN còn bébỏng, hồn nhiên, nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Bởi vậy,GVMN phải luôn âu yếm, vui vẻ, ngọt ngào với trẻ, kiênnhẫn GD giúp trẻ phân biệt các hành vi đúng – sai; đồngthời phải biết tự kiềm chế sự bực tức, nóng giận khi trẻtỏ ra bướng bỉnh không vâng lời hoặc có lỗi với bạn, hayvụng về làm đổ vỡ đồ chơi, đồ dùng sinh hoạt… GVMNphải làm chủ được bản thân, điều khiển được cảm xúc vàhành vi của mình. Chính tính kiên nhẫn giúp GVNM làmviệc bằng tinh thần trách nhiệm cao nhất, không dễ khuấtphục trước khó khăn, không dễ thất bại.- Có tinh thần trách nhiệm cao trong nghề nghiệp.GVMN khi được phân công công việc nào cũng đều phảithấy được công việc dạy học của mình là rất vinh quang,đáng tự hào, phải nêu cao ý thức, thực hiện hết sức mình đểhoàn thành một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. GVMNphải tận tâm, tận lực, không nề hà bất cứ công việc gì, manghết khả năng sẵn có của mình ra làm bằng được, với tráchnhiệm cao nhất, theo tinh thần “Đã phụ trách việc gì thìquyết làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khónhọc, không sợ nguy hiểm” [4; tr 634]. GVMN phải hếtmình chăm sóc trẻ mầm non như: xúc cháo, bón cơm… dỗcho các cháu ăn hết suất, vệ sinh sạch sẽ cho các cháu khi đitiểu, đi tiêu, khi bị bệnh tật; dành thời gian chơi cùng trẻ.Tinh thần trách nhiệm cao với công việc của GVMNcòn thể hiện ở việc luôn chấp hành tốt quy định củangành, của nhà trường, không vi phạm đạo đức nhà giáo.Đồng thời, phải ra sức suy nghĩ tìm tòi, học tập nâng caotrình độ, đề ra những cách thức cải tiến trong công tácchăm sóc và giáo dục trẻ; áp dụng phương pháp, hìnhthức giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi MN để nâng caochất lượng giáo dục, đáp ứng được mong muốn của phụhuynh học sinh và yêu cầu của xã hội.- Có kĩ năng ứng xử sư phạm khéo léo. Ứng xử khéoléo là có những cử chỉ, hành động, lời lẽ thích hợp làmngười khác vừa lòng, để đạt được kết quả như mongmuốn trong quan hệ đối xử. Đây là yêu cầu nghề quantrọng đối với mỗi giáo viên, đặc biệt là GVMN; là khảnăng người GVMN vận dụng linh hoạt các phương phápGD vào chăm sóc và GD trẻ MN. Với mỗi một trẻ có tâmlí, tính cách khác nhau, GVMN cần linh hoạt trong ứngxử: có trẻ ưa nói ngọt, dịu dàng, tình cảm; ngược lại cótrẻ GVMN phải cứng rắn, nghiêm nghị khi yêu cầu thựchiện các nội dung giáo dục. Trong giao tiếp với trẻ mầmnon, GVMN phải khéo léo “khen nhiều, chê ít”, hay“khen chín chỉ chê một”, tránh làm tổn thương lòng tựtrọng của trẻ, luôn hiểu trẻ muốn gì và làm gì để từngbước thỏa mãn nhu cầu những hợp lí đó. Trong ứng xửvới trẻ, cô giáo phải lấy thành tâm, thiện ý làm gốc chohành vi của mình. Từng ánh mắt, hành vi, cử chỉ củaGVMN toát lên vẻ chân thành đó.Bên cạnh đó, GVMN còn phải có kĩ năng giao tiếp vớicác bậc phụ huynh. Việc giữ mối quan hệ thân thiện cùngkhả năng giao tiếp tốt với các bậc cha mẹ giúp giáo viêncó thể hiểu hơn về tâm tư, suy nghĩ của con trẻ và hiểuđược những mong muốn của phụ huynh. Đồng thời, điềunày sẽ giúp giáo viên truyền đạt tốt hơn các thông tin vềhoạt động của nhà trường dành cho trẻ, phổ biến cách thứcchăm sóc và nuôi dạy trẻ cho phụ huynh một cách tốt nhất.Kĩ năng ứng xử khéo léo của GVMN còn thể hiện trongviệc xây dựng mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp. Tinh thầnđoàn kết, chân thành, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ là nguyên tắc129VJETạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131chính trong giao tiếp mối quan hệ này. Có thái độ cầu thị,khiêm tốn, không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các thế hệđi trước; bao dung, gần gũi giúp đỡ thế hệ đi sau mình.Nhà GD học K.D.Usinxki đã khẳng định: muốn GDcon người về mọi phương diện thì trước hết phải hiểu conngười về mọi mặt. Bởi vậy, muốn đạt được hiệu quả GDthì GVMN phải hiểu rõ đặc điểm phát triển của trẻ, lựachọn đúng những tác động sư phạm mềm dẻo, phù hợptừng đối tượng, phát huy tối đa tiềm năng của trẻ và vai tròchủ đạo của mình. Muốn vậy, GVMN phải được trang bịhệ thống các phương pháp sư phạm để vận dụng linh hoạttrong từng hoàn cảnh nhằm đạt hiệu quả GD cao.2.2. Vai trò của đạo đức nghề nghiệp đối với giáo viênmầm non2.2.1. Đạo đức nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việcnâng cao trình độ, năng lực công tác của giáo viên mầm nonGVMN – người “chiến sĩ” trên mặt trận tri thức, khoahọc và văn hóa muốn thực hiện được nhiệm vụ GD củamình cần trau dồi cả “đức” và “tài” hay phẩm chất vànăng lực. Phẩm chất là yếu tố nền tảng có ý nghĩa địnhhướng, định vị cho mỗi người, là một trong những điềukiện chủ quan để phát triển và sử dụng tốt năng lực. Nănglực là yếu tố quan trọng, hữu dụng đối với xã hội, thể hiệntính tích cực xã hội của mỗi cá nhân. Trong công việcgiảng dạy, năng lực trí tuệ được thể hiện ở trình độ họcvấn, trình độ tư duy, khả năng suy nghĩ và hành động hợplí, khả năng thích nghi với những biến đổi của hoàn cảnh.“Đức” thể hiện trong ĐĐNN của GVMN chính là lòngyêu nghề, yêu trẻ, tinh thần tận tụy với công việc; thực hànhtốt các phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tưtrong công việc và cuộc sống hàng ngày; có tinh thần đoànkết, hợp tác với đồng nghiệp, chấp hành tốt kỉ luật củangành, của nhà trường, hoàn thành trách nhiệm công dân.Đối tượng chăm sóc và GD của GVMN là trẻ em từ3-6 tuổi. Ở lứa tuổi này, trẻ chưa tự chăm sóc bản thânmình, tư duy logic chưa phát triển, cách hành xử thườngdựa trên bản năng nên phụ thuộc rất nhiều vào sự chămsóc và GD của cô giáo và nhà trường. Do đó, GVMNphải có tính kiên nhẫn trước những hành động non trẻ đó,tỉ mỉ, tận tình, định hướng suy nghĩ và hành động đúngđắn cho trẻ. Nếu cô giáo thiếu tôn trọng trẻ, quát mắng,định kiến với trẻ sẽ làm tổn thương trẻ về mặt tinh thần,làm mất đi sự mạnh dạn, hồn nhiên, những xúc cảm tíchcực ở trẻ, khiến trẻ sợ sệt, mặc cảm, thiếu tự tin ở bảnthân. Nếu lòng yêu nghề, yêu trẻ không đủ lớn cùng vớisự thiếu kiên nhẫn, trước áp lực nghề nghiệp đặc thù,GVMN rất dễ vi phạm đạo đức nghề giáo, vi phạm lítưởng mục tiêu “tất cả vì học sinh thân yêu” của mình.Chính ĐĐNN là động lực giúp cho người GVMNhăng say học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tri thứckhoa học; không ngừng đổi mới chất lượng giờ giảng,sáng tạo đồ dùng dạy học giúp trẻ dễ quan sát, nhớ lâubài học. Bởi vậy, việc phân chia “đức”, “tài” chỉ có ýnghĩa tương đối. Trong nghề dạy học, nhất là ở bậc họcMN, “tài” và “đức” luôn phải song hành; GVMN cóchuẩn mực về đạo đức cần có chuyên môn vững vàng;ngược lại, một người GVMN đạt được nhiều danh hiệuthi đua cao quý, nhiều sáng kiến kinh nghiệm lại càngcần giữ gìn và phát huy đạo đức nhà giáo. Như vậy, ởGVMN phải hội đủ cả đạo đức và năng lực chuyên mônđể làm tốt nhiệm vụ của mình là đặt những viên gạch đầutiên nhằm hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ, vì “tất cảnhững cái gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành ngườilớn đều thu nhận được từ trong thời thơ ấu” [6; tr 235].Chỉ có toàn tâm, toàn ý, không ngừng học tập trau dồinghề nghiệp, GVMN mới thể hiện được đạo đức của mìnhtrong công việc; ngược lại, GVMN tự thấy bổn phận tráchnhiệm của mình tất yếu phải ra sức học tập, rèn luyện vềđạo đức, phẩm chất, nhân cách, thể hiện qua suy nghĩ,hành động của bản thân trong GD trẻ MN. Để làm đượcđiều đó, mỗi nhà giáo một mặt phải biết học tập những giátrị đạo đức truyền thống tốt đẹp, làm chuẩn mực cho cáctác động sư phạm của mình; mặt khác phải tích cực rènluyện nhằm hình thành những tính cách và phẩm chấtĐĐNN cần thiết, phù hợp với các hoạt động sư phạm.Chính trong quá trình chủ động, tích cực tự GD, rèn luyệnnhư vậy, nhân cách của GVMN được hình thành, pháttriển, được kiểm chứng và khẳng định trên thực tế. Theonghĩa đó, ĐĐNN của GVMN là yếu tố cơ bản hình thànhvà củng cố nền tảng nhân cách người thầy.2.2.2. Đạo đức nghề nghiệp là mục tiêu, động lực để giáoviên mầm non vượt qua khó khăn, quyết tâm thực hiệnchiến lược “trồng người” trong giáo dục mầm nonVới tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ĐĐNN chịusự ảnh hưởng và tác động của tồn tại xã hội, đồng thời cũngtác động mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau hơn 30năm đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướngxã hội chủ nghĩa, thực hiện CNH, HĐH, đất nước ta đã cóbước phát triển vượt bậc, điều kiện sống của nhân dân đượcsự cải thiện rõ rệt về mọi mặt. Chính sự tiến bộ đó đã đặt rayêu cầu ngày càng cao về chất lượng GDMN; công tác xãhội hóa GDMN đã dành được sự quan tâm của nhiều tổchức xã hội. Hàng loạt trường MN chất lượng cao ra đờinhằm đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội. Tại cáctrường MN công, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại,thông minh, khu vui chơi của trẻ cũng được quan tâm trangbị đồng bộ. Những điều kiện này đòi hỏi GVMN phải luônkhông ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,thường xuyên bồi dưỡng lí tưởng và ĐĐNN để đáp ứng vớiyêu cầu ngày càng cao của ngành GD-ĐT và của xã hội.Thực tế, nghề GVMN là một nghề vất vả, đặc thù,nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ, tận tâm, cẩn thận trong quá trình130VJETạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 128-131chăm sóc, GD trẻ MN. GVMN phải thường xuyên uốnnắn, sửa chữa cho trẻ từng động tác, hành vi, chăm sóctừng miếng ăn, giấc ngủ cho trẻ. Công việc trên lớp chiếmphần lớn thời gian trên lớp; ngoài giờ dạy trên lớp, họ cònphải làm đồ dùng dạy học trực quan, soạn giáo án, hồ sơchuẩn bị cho buổi dạy sau. Với tình yêu nghề nghiệp, cáccô vẫn yêu thương trẻ MN, yêu trường, luôn cống hiến hếttài năng và niềm đam mê nghề nghiệp cho sự nghiệp GDcon người. Đó là động lực bên trong thôi thúc ngườiGVMN phấn đấu không ngừng rèn luyện chuyên môn,trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng hướng tới mục tiêuhình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ MN.Mặt khác, dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiềuloại hình GDMN ra đời đáp ứng yêu cầu của xã hội, củangười dân. Ở vùng sâu, vùng xa, thu nhập của đồng bàodân tộc ít người còn thấp, sự quan tâm đến công tác chămsóc, GD trẻ MN chưa cao. Ngược lại, ở thành phố, đồngbằng, người dân có thu nhập sẵn sàng chọn những loạihình GDMN chất lượng cao cho con em họ, đi liền vớiđó là những đòi hỏi khắt khe hơn đối với đội ngũ GVMN.Chính ý thức ĐĐNN đã chi phối hoạt động sư phạm củaGVMN, dù ở bất cứ môi trường GD nào, họ vẫn tích cựctham gia vào sự nghiệp GD-ĐT của nước nhà với ý thứctrách nhiệm cao, tự nguyện, tự giác trong chăm sóc vàGD trẻ mà không chịu sức ép của bất kì tác động nào bênngoài. ĐĐNN đã giúp GVMN luôn chủ động, sáng tạo,tự giác rèn luyện các phẩm chất đạo đức nhà giáo, tự giácchấp hành các nội quy của ngành, của trường, hoàn thànhnhiệm vụ được giao trong mọi hoàn cảnh.2.2.3. Đạo đức nghề nghiệp có tác dụng giáo dục, nêugương, xây dựng các giá trị đạo đức mới cho giáo viênmầm nonSinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất nhấn mạnhđến “nêu gương” trong GD. Người khẳng định, trong GDtrẻ em, phương pháp “nêu gương” có vai trò rất quantrọng, bởi vì “trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cánbộ phụ trách… phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm”[7; tr 77], “học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốthay xấu” [8; tr 239]. Nhân cách học sinh phản ánh trực tiếpkết quả của quá trình GD của nhà trường, gia đình và xãhội. Người GVMN có ĐĐNN sẽ luôn tự soi mình vào,nhắc nhở bản thân, phát huy mặt mạnh, khắc phục mặtyếu, kém; có ứng xử và hành vi phù hợp với chuẩn mựcnghề giáo, thống nhất giữa “lời nói với việc làm”, “phải cósự kết hợp giữa nhận thức và thực tiễn” là tấm gương sángvề nhân cách, đạo đức cho trẻ MN học tập theo. Tuy nhiên,để hình thành được ĐĐNN thì đối với mỗi GVMN phảitrải qua một cuộc chiến “khổng lồ”, phải thường xuyênsuốt đời, kiên trì, bền bỉ rèn luyện cho mình các phẩm chấtđạo đức nhà giáo, không được chủ quan, tự mãn, bằnglòng với kết quả mà mình đã đạt được.Mặt khác, ĐĐNN là “bộ lọc” giúp mỗi GVMN lựachọn, tiếp thu những giá trị tiến bộ, loại bỏ những giá trịthấp kém trong đời sống hàng ngày. Xu thế toàn cầu hóa,hội nhập quốc tế đã làm xuất hiện và thúc đẩy quá trìnhxâm nhập giữa các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyềnthống và hiện đại, giữa tính dân tộc và tính quốc tế;những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc có nguy cơbị lấn át bởi các giá trị ngoại lai. Vì thế, GD ĐĐNN giúpngười GVMN giữ vững lập trường tư tưởng chính trịtrước những biến động của cuộc sống, bồi đắp lí tưởngcách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào con đường đi lênCNXH của dân tộc; xây dựng các phẩm chất đạo đức tốtđẹp của nhà giáo: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,từng bước bồi dưỡng lối sống lành mạnh có văn hóa phùhợp với chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam.3. Kết luậnĐĐNN là một trong những “thước đo” về năng lực đốivới GVMN, là động lực tinh thần giúp người GVMN làmtròn trách nhiệm “dạy người”, “dạy chữ” của mình, xứngđáng là “anh hùng vô danh” trong sự nghiệp phát triển GDĐT, góp phần quan trọng trong bồi dưỡng và phát triển nhâncách tốt đẹp cho thế hệ trẻ ở những giai đoạn đầu tiên. Ýthức được vai trò quan trọng của ĐĐNN, mỗi GVMN cầntích cực rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất và năng lực đểđáp ứng yêu cầu của xã hội ngày càng phát triển.Tài liệu tham khảo[1] Bộ GD-ĐT – Bộ Nội vụ (2015). Thông tư liên tịchsố 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/9/2015quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệpgiáo viên mầm non.[2] Bộ trưởng Bộ GD-ĐT (2008). Quy định về chuẩnnghề nghiệp giáo viên mầm non (ban hành kèm theoQuyết định số 02 /2008/QĐ-BGDĐT ngày22/01/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).[3] Hồ Lam Hồng (2008). Nghề giáo viên mầm non.NXB Giáo dục.[4] Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5, 1996). NXB Chính trịQuốc gia – Sự thật.[5] Phạm Văn Đồng (1980). Mấy vấn đề về văn hóagiáo dục. NXB Sự thật.[6] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) – Nguyễn Thị NhưMai – Đinh Thị Kim Thoa (2013). Tâm lí học trẻ em- lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư phạm.[7] Hồ Chí Minh toàn tập (tập 12, 1996). NXB Chínhtrị Quốc gia – Sự thật.[8] Đào Thanh Hải – Minh Tiến (sưu tầm, tuyển chọn,2005). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. NXBLao động.[9] Trần Bá Hoành (2010). Vấn đề giáo viên – Nhữngnghiên cứu lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Sư phạm.131