VNTB – Mọi thứ bạn nghĩ bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai*

VNTB – Mọi thứ bạn nghĩ bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai*

VNTB – Mọi thứ bạn nghĩ bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai*VNTB – Mọi thứ bạn nghĩ bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô đều sai*

TS Phạm Đình Bá

 

(VNTB) – “Đủ rồi! Chúng ta không thể sống như thế này nữa.”

 

*Và tại sao nó lại quan trọng ngày nay trong thời đại cách mạng mới. 

Đây là bài viết dài hơn 6 trang của Leon Aron, một học giả thường trú và giám đốc Nghiên cứu về Nga tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ và là tác giả của cuốn “Những con đường đến ngôi đền: Sự thật, Ký ức, Ý tưởng và Lý tưởng trong quá trình hình thành Cách mạng Nga, 1987 -1991”. [1] 

Mỗi cuộc cách mạng là một bất ngờ. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Nga 1987-1991 phải được coi là một trong những điều ngạc nhiên lớn nhất. Trong những năm trước năm 1991, hầu như không một chuyên gia, học giả, quan chức hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, cùng với đó là sự sụp đổ của chế độ độc đảng, nền kinh tế do nhà nước sở hữu, và sự kiểm soát của Điện Kremlin đối với các hoạt động trong nước và các nước Đông Âu. 

Khi Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng 3 năm 1985, không ai trong số những người đương thời của ông đoán trước được một cuộc khủng hoảng cách mạng. Mặc dù có những bất đồng về quy mô và chiều sâu của các vấn đề trong hệ thống của Liên Xô, nhưng không ai cho rằng chúng đe dọa tính mạng, ít nhất là không sớm về sự sụp đổ ấy.

Từ đâu mà có sự thiển cận phổ biến kỳ lạ như vậy? Việc các chuyên gia phương Tây không lường trước được sự sụp đổ của Liên Xô có thể một phần là do một loại chủ nghĩa xét lại lịch sử – gọi nó là chủ nghĩa xét lại trong phong trào chống cộng sản. Chủ nghĩa xét lại nầy có xu hướng phóng đại sự ổn định và tính hợp pháp của chế độ Xô Viết. 

Tuy nhiên, những người khó có thể coi là mềm mỏng trước chủ nghĩa cộng sản cũng bối rối trước sự sụp đổ của nó. Một trong những kiến trúc sư của chiến lược Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh, George Kennan, đã viết rằng, khi xem xét toàn bộ “lịch sử các vấn đề quốc tế trong thời kỳ hiện đại”, ông thấy “khó có thể nghĩ ra sự kiện nào kỳ lạ và đáng kinh ngạc hơn, và thoạt nhìn không thể giải thích được, hơn là sự tan rã và biến mất đột ngột và hoàn toàn… của cường quốc liên tiếp được gọi là Đế quốc Nga và sau đó là Liên Xô.” 

Richard Pipes, có lẽ là nhà sử học hàng đầu của Mỹ về Nga, đồng thời là cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, gọi cuộc cách mạng là “bất ngờ”. Một tuyển tập các bài tiểu luận về sự sụp đổ của Liên Xô trong số đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ National Interest có tựa đề “Cái chết kỳ lạ của chủ nghĩa cộng sản Xô viết.”

Có thể dễ hiểu hơn, nếu sự sai sót trong phán đoán tập thể này có thể đã được ký gửi một cách an toàn vào một ký ức về những điều kỳ lạ và thất thường khác của khoa học xã hội, và sau đó bị lãng quên. Tuy nhiên, ngay cả ngày nay, sau hơn 20 năm trôi qua, một giả định hợp lý hơn là Liên Xô vẫn tiếp tục ở tình trạng trước khi sụp đổ, hoặc nhiều nhất là cuối cùng chế độ ấy sẽ bắt đầu một sự suy tàn kéo dài. 

Thật vậy, Liên Xô năm 1985 sở hữu nhiều tài nguyên thiên nhiên và nhân lực như 10 năm trước. Chắc chắn, mức sống thấp hơn nhiều so với hầu hết các nước Đông Âu, chứ chưa nói đến phương Tây. Tình trạng thiếu hụt, phân phối lương thực, sắp hàng dài trong các cửa hàng và nghèo đói trầm trọng là đặc hữu. Nhưng Liên Xô đã trải qua những thiên tai lớn hơn nhiều và đã đối phó với chúng mà không suy giảm một chút nào sự kìm kẹp của nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế, chứ đừng nói đến việc từ bỏ nó.

Cũng không có bất kỳ thông số quan trọng nào về hiệu suất kinh tế trước năm 1985 để chỉ ra một thảm họa sụp đổ đang tiến triển nhanh chóng. Từ năm 1981 đến năm 1985, tốc độ tăng trưởng GDP, mặc dù đã chậm lại so với những năm 1960 và 1970, nhưng đạt trung bình 1,9%/năm. Suốt năm 1989, mức độ tăng trưởng vẫn bình ổn như vậy. 

Thâm hụt ngân sách, mà kể từ Cách mạng Pháp đã được coi là một trong những dấu hiệu nổi bật của một cuộc khủng hoảng cách mạng sắp tới, chiếm chưa đến 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù tăng lên nhanh chóng, thâm hụt ngân sách vẫn ở mức dưới 9 phần trăm cho đến năm 1989 – một mức mà hầu hết các nhà kinh tế sẽ thấy là khá dễ quản lý.

Giá dầu giảm mạnh, từ 66 đô la một thùng năm 1980 xuống còn 20 đô la một thùng năm 1986 (giá năm 2000) chắc chắn là một đòn nặng nề đối với nền tài chính của Liên Xô. Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh theo lạm phát, dầu trên thị trường thế giới năm 1985 đắt hơn năm 1972 và chỉ thấp hơn một phần ba so với suốt những năm 1970. Đồng thời, thu nhập của Liên Xô tăng hơn 2% vào năm 1985, và tiền lương được điều chỉnh theo lạm phát tiếp tục tăng trong 5 năm tiếp theo cho đến năm 1990 ở mức trung bình hơn 7%.

Vâng, sự trì trệ là rõ ràng và đáng lo ngại. Nhưng như giáo sư Peter Rutland của Đại học Wesleyan đã chỉ ra: “Xét cho cùng, bệnh mãn tính không nhất thiết gây tử vong.” Ngay cả nhà nghiên cứu hàng đầu về những nguyên nhân kinh tế của các cuộc cách mạng, Anders Aslund, cũng lưu ý rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “không hề bi đát”.

Từ quan điểm của chế độ Liên Xô, hoàn cảnh chính trị thậm chí còn ít rắc rối hơn. Sau 20 năm không ngừng đàn áp đối lập chính trị, hầu như tất cả những người bất đồng chính kiến nổi bật đều đã bị cầm tù, đày ải (như Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc phải di cư, hoặc chết trong các trại cải tạo và nhà tù.

Dường như cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào khác của một cuộc khủng hoảng làm tiền đề cho một cuộc cách mạng, kể cả nguyên nhân truyền thống khác được coi là nguyên nhân dẫn đến thất bại của nhà nước – áp lực bên ngoài. Ngược lại, thập kỷ trước được đánh giá chính xác là “thực hiện tất cả các mong muốn ngoại giao và quân sự lớn của Liên Xô”, như nhà sử học và nhà ngoại giao người Mỹ Stephen Sestanovich đã viết. 

Vào thời điểm nầy, Afghanistan ngày càng trông giống như một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một lực lượng quân đội Liên Xô gồm 5 triệu người, tổn thất ở đó là không đáng kể. Thật vậy, mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ để duy trì một đế chế đã trở thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng chi phí của cuộc chiến Afghanistan hầu như không quá lớn: Ước tính khoảng 4 tỷ đến 5 tỷ đô la vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong GDP của Liên Xô.

Mỹ cũng không phải là lực lượng xúc tác cho sự sụp đổ của Liên Xô. “Học thuyết Reagan” về việc chống lại và nếu có thể, đảo ngược bước tiến của Liên Xô trong Thế giới thứ ba đã gây áp lực đáng kể lên chu vi của đế chế Liên Xô, ở những nơi như Afghanistan, Angola, Nicaragua và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn của Liên Xô ở đó cũng không to lớn đến nỗi gây tử vong cho đế chế Liên Xô.

Là điềm báo trước cho một cuộc cạnh tranh có khả năng rất tốn kém, “Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược” do Reagan đề xuất thực sự rất quan trọng – nhưng nó còn lâu mới báo trước một thất bại quân sự, vì Điện Kremlin biết rất rõ rằng việc triển khai hiệu quả các hệ thống phòng thủ trên không gian còn phải mất nhiều thập kỷ nữa. 

Tương tự như vậy, mặc dù cuộc nổi dậy ôn hòa chống cộng sản năm 1980 của công nhân Ba Lan là một diễn biến rất đáng lo ngại đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô, nhấn mạnh sự bấp bênh của đế chế Đông Âu của họ, nhưng đến năm 1985, Công đoàn Đoàn kết có vẻ đã cạn kiệt. Liên Xô dường như đã điều chỉnh để thực hiện các cuộc “bình định” đẫm máu ở Đông Âu cứ sau 12 năm mà không quan tâm nhiều đến dư luận thế giới, bao gồm Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980.

Nói cách khác, đây là một Liên bang Xô viết ở đỉnh cao quyền lực và ảnh hưởng toàn cầu, cả theo quan điểm của chính nước này và quan điểm của phần còn lại của thế giới. “Chúng ta có xu hướng quên,” nhà sử học Adam Ulam sau này lưu ý, “rằng vào năm 1985, không có chính phủ nào của một quốc gia lớn dường như nắm quyền vững chắc, các chính sách của nó được định hướng rõ ràng như của Liên Xô.”

Chắc chắn, có rất nhiều lý do cấu trúc – kinh tế, chính trị, xã hội – tại sao Liên Xô lại sụp đổ như vậy, nhưng các lý do nầy không đủ giải thích được sự kiện đã xảy ra như thế nào khi nó xảy ra. Nghĩa là, làm thế nào mà trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1989, trong trường hợp không có các điều kiện kinh tế, chính trị, nhân khẩu học và các cấu trúc khác xấu đi rõ rệt, nhà nước và hệ thống kinh tế của nó đột nhiên bắt đầu bị công dân Liên Xô coi là đáng xấu hổ, bất hợp pháp và không thể chịu đựng được, khiến cho đế chế đổ nhào xuống như thế?

Giống như tất cả các cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng mới nhất của Nga được bắt đầu bằng một quá trình tự do hóa “từ trên” với một phần do dự – và cơ sở lý luận cho quá trình tự do hóa có vẻ vượt xa sự cần thiết phải điều chỉnh nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế trở nên thân thiện với Liên Xô hơn. 

Không thể phủ nhận, cốt lõi công việc làm của Gorbachev là lý tưởng: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo đức hơn.

Vì mặc dù cải thiện kinh tế là một trong những lý giải, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, Gorbachev và những người ủng hộ ông trước tiên đã đặt ra những sai trái về mặt đạo đức của chế độ, thay vì kinh tế. 

Hầu hết những gì những người ủng hộ Gorbachev nói công khai trong những ngày đầu của cải tổ (perestroika), giờ đây dường như không gì khác hơn là sự bày tỏ nỗi thống khổ của họ đối với sự suy giảm tinh thần và những tác động ăn mòn của quá khứ thời Stalin. 

Đó là khởi đầu của cuộc tìm kiếm tuyệt vọng câu trả lời cho những câu hỏi lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại đều bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, đàng hoàng? Điều gì tạo nên một trật tự kinh tế và xã hội công bằng? Thế nào là một nhà nước đàng hoàng và hợp pháp? Mối quan hệ của một nhà nước như vậy với xã hội dân sự nên như thế nào?

“Một bầu không khí đạo đức mới đang hình thành trong nước,” Gorbachev nói với Ủy ban Trung ương tại cuộc họp tháng 1 năm 1987, nơi ông tuyên bố glasnost – cởi mở – và dân chủ hóa là nền tảng cho perestroika, hay tái cơ cấu xã hội Xô Viết. 

“Việc đánh giá lại các giá trị và suy nghĩ lại về tính sáng tạo của chúng đang được tiến hành.” Sau này, Gorbachev nhớ lại cảm giác “không thể tiếp tục như vậy được nữa, phải thay đổi cuộc sống một cách triệt để, đoạn tuyệt với những sai lầm trong quá khứ”, ông gọi đó là “quan điểm đạo đức” của mình.

Trong một cuộc phỏng vấn năm 1989, “cha đỡ đầu của glasnost”, Aleksandr Yakovlev, kể lại rằng, khi trở lại Liên Xô vào năm 1983 sau 10 năm làm đại sứ tại Canada, ông cảm thấy đã đến lúc mọi người sẽ lên tiếng, 

Đủ rồi! Chúng ta không thể sống như thế này nữa. Mọi thứ phải được thực hiện theo một cách mới. Chúng ta phải xem xét lại các khái niệm, cách tiếp cận, quan điểm của chúng ta về quá khứ và tương lai của chúng ta…. Đã có một sự hiểu biết rằng đơn giản là không thể sống như chúng tôi đã sống trước đây – không thể chịu đựng được, thật nhục nhã.

Đối với thủ tướng Nikolai Ryzhkov của Gorbachev, “tình trạng [nravstennoe] đạo đức của xã hội” năm 1985 là đặc điểm “đáng sợ nhất” của nó:

   [Chúng tôi] ăn cắp của chính mình, nhận và đưa hối lộ, nói dối trong các báo cáo, trên báo chí, từ những bục cao, chìm đắm trong những lời nói dối của mình, treo huy chương cho nhau. Và tất cả những điều này — từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.

Một thành viên khác trong nhóm những người theo chủ nghĩa tự do ban đầu rất nhỏ của Gorbachev, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng đau đớn không kém trước tình trạng vô luật pháp và tham nhũng phổ biến. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông năm 1984-1985: “Mọi thứ đều mục nát. Nó phải được thay đổi.

Trở lại những năm 1950, người tiền nhiệm của Gorbachev, Nikita Khrushchev, đã tận mắt chứng kiến tòa dinh thự mà Stalin xây dựng trên sự khủng bố và dối trá bấp bênh như thế nào. Nhưng thế hệ Khrushchev tin tưởng hơn vào khả năng phục hồi của chế độ. Gorbachev và nhóm của ông dường như cũng tin rằng những gì cần sửa đổi cũng có thể kiểm soát được về mặt chính trị. Gorbachev tuyên bố dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu mà là bản chất của cải cách (perestroika).” Nhiều năm sau, ông nói với những người phỏng vấn:

Mô hình Xô Viết đã bị đánh bại không chỉ trên bình diện kinh tế và xã hội; nó đã bị đánh bại trên bình diện văn hóa. Xã hội của chúng ta, những người của chúng ta, những người có học thức nhất, trí thức nhất, đã từ chối mô hình đó trên bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, áp bức con người về mặt tinh thần và chính trị.

Những cải cách đã dẫn đến cuộc cách mạng vào năm 1989 phần lớn là do một nguyên nhân “duy tâm” khác: ác cảm sâu sắc và cá nhân của Gorbachev đối với bạo lực và do đó, ông ngoan cố từ chối sử dụng đến sự cưỡng bức hàng loạt khi quy mô và chiều sâu của sự cải cách bắt đầu vượt xa những thay đổi ban đầu của ông dự tính. 

Việc triển khai sự đàn áp của chủ nghĩa Stalin thậm chí để “bảo toàn hệ thống” sẽ là sự phản bội niềm tin sâu sắc nhất của Gorbachev. Một nhân chứng nhớ lại Gorbachev đã nói vào cuối những năm 1980, “Tôi được đề nghị rằng chúng ta nên phản ứng mạnh như đập nắm tay xuống bàn,” và sau đó siết chặt tay thành nắm đấm minh họa. “Nói chung,” Gorbachev tiếp tục, “có thể làm mạnh được. Nhưng chúng tôi không cảm thấy muốn làm như vậy.”

Vai trò của ý tưởng và lý tưởng trong việc tạo ra cuộc cách mạng Nga càng trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào những gì đang xảy ra bên ngoài điện Kremlin. Aleksandr Bovin, một nhà báo hàng đầu của Liên Xô và sau này là một sứ giả đầy đam mê của cởi mở glasnost, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng về cải cách perestroika đã “chín muồi” trong bối cảnh người dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, trộm cắp trắng trợn, dối trá và những trở ngại trên con đường làm việc lương thiện

Một nhân chứng khác nhớ lại rằng những dự đoán về “những thay đổi cơ bản đã xuất hiện”, và những dự đoán nầy đã tạo ra một nhóm người ủng hộ đáng kể cho những cải cách triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng chào đón việc Gorbachev lên nắm quyền rất mạnh mẽ và ngày càng tăng, đến mức chúng đã định hình chính sách thực tế của ông. Đột nhiên, các ý tưởng cởi mở và cải cách trở thành một nhân tố cấu trúc và chất liệu cho một cuộc cách mạng đang diễn ra.

Uy tín của hệ tư tưởng chính thống, theo cách nói của Yakovlev, đã gắn kết toàn bộ hệ thống chính trị và kinh tế của Liên Xô với nhau “như những vòng thép,” đang nhanh chóng suy yếu. Những nhận thức mới đã góp phần thay đổi thái độ của nhiều người đối với chế độ độc đảng và cấu thành “sự thay đổi các giá trị.” 

Dần dần, tính hợp pháp của các thỏa thuận chính trị cũ ở Liên Xô bắt đầu bị nghi ngờ. Đây là một ví dụ về “định lý Thomas” bất hủ của Robert K. Merton – “Nếu con người định nghĩa các tình huống là có thật, thì các tình huống nầy cũng có thật trong hệ quả của chúng” – sự suy thoái thực sự của nền kinh tế Liên Xô chỉ trở thành hệ quả từ sau một sự thay đổi cơ bản trong cách nhiều người nhìn nhận và đánh giá hiệu suất của chế độ.

Viết cho một tạp chí của Liên Xô vào năm 1987, một độc giả người Nga đã gọi những gì anh ta nhìn thấy xung quanh mình là “sự phá vỡ triệt để trong ý thức.” Chúng ta biết rằng người ấy đã đúng vì sự sụp đổ của Liên Xô là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến trình của nó đã được vạch ra trong các cuộc thăm dò dư luận gần như ngay từ đầu. 

Vào cuối năm 1989, cuộc điều tra dư luận toàn quốc mang tính đại diện đầu tiên cho thấy sự ủng hộ áp đảo đối với các cuộc bầu cử cạnh tranh và hợp pháp hóa các đảng phái khác ngoài Đảng Cộng sản Liên Xô—sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và với các đảng phái độc lập vẫn là bất hợp pháp. 

Đến giữa năm 1990, hơn một nửa số người được khảo sát ở một vùng của Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” sẽ có nhiều khả năng hơn nếu “chính phủ cho phép các cá nhân làm theo ý họ muốn.” Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò toàn nước Nga cho thấy 56% ủng hộ việc chuyển đổi nhanh chóng hoặc dần dần sang nền kinh tế thị trường. Một năm nữa trôi qua, và tỷ lệ những người trả lời ủng hộ thị trường đã tăng lên 64%.

Những người khơi mào cho cuộc “đột phá ý thức” phi thường này cũng không khác gì những người đã khơi mào cho những cuộc cách mạng kinh điển khác của thời hiện đại. Họ là ải? – nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville đã quan sát, những người như vậy “giúp tạo ra nhận thức chung về sự bất mãn, nhận thức như vậy được củng cố vững chắc, điều này … tạo ra nhu cầu hiệu quả cho sự thay đổi mang tính cách mạng.” Đột nhiên, “toàn bộ nền giáo dục chính trị” trở thành “công việc của các nhà văn”.

Và ở Liên Xô cũng vậy. Những hàng dài đến các ki-ốt bán báo – đôi khi chật cứng xung quanh các sạp báo hình thành từ sáu giờ sáng, với mỗi số phát hành hàng ngày thường bán hết sạch trong hai giờ – và lượng đặt mua tăng vọt đối với các tờ báo và tạp chí tự do hàng đầu. 

Điều nầy chứng tỏ sức mạnh của các nhà báo, những nhà tiểu luận nổi tiếng nhất của cởi mở và minh bạch glasnost, hay theo cách nói của Samuel Johnson, “họ là những người thầy của sự thật”, như nhà kinh tế học Nikolai Shmelyov; các triết gia chính trị Igor Klyamkin và Alexander Tsypko; những nhà tiểu luận lỗi lạc như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov và Ales Adamovich; các nhà báo Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và ít nhất hai chục người nữa.

Đối với họ, một sự hồi sinh đạo đức là điều cần thiết. Điều này không chỉ có nghĩa là một cuộc đại tu hệ thống kinh tế và chính trị của Liên Xô, không chỉ đơn thuần là đảo lộn các chuẩn mực xã hội, mà còn là một cuộc cách mạng ở cấp độ cá nhân: một sự thay đổi trong tính cách tường người ở Nga. 

Như Mikhail Antonov đã tuyên bố trong một bài tiểu luận nổi tiếng năm 1987, “Vậy chuyện gì đang xảy ra với chúng ta?”, người dân phải được “cứu” – không phải khỏi những nguy hiểm bên ngoài mà là “hầu hết là khỏi chính họ, khỏi hậu quả của những quá trình làm mất tinh thần và giết chết những phẩm chất cao quý nhất của con người.” 

Nhưng hồi sinh đạo đức bằng cách nào? Bằng cách làm cho quá trình “tự do hóa” non trẻ trở nên định mệnh, không thể đảo ngược – không phải sự “tan băng” ngắn ngủi của Khrushchev, mà là sự thay đổi khí hậu toàn diện. 

Và điều gì sẽ đảm bảo tính không thể đảo ngược này? Trên tất cả, sự xuất hiện của một cá nhân tự do sẽ “miễn nhiễm với sự tái diễn của chế độ nô lệ tinh thần.” Tạp chí hàng tuần Ogoniok, một ấn phẩm quan trọng của cởi mở và minh bạch glasnost, đã viết vào tháng 2 năm 1989 rằng chỉ có “mỗi người trong chúng ta không có khả năng trở thành người cung cấp thông tin cho cảnh sát, phản bội và dối trá, bất kể là của ai hay dưới danh nghĩa nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự tái xuất hiện của một nhà nước độc tài.”

Tính chất vòng vo của lập luận này dường như không gây rắc rối cho bất kỳ ai —để cứu người thì phải cứu cải cách, nhưng cải cách chỉ có thể được cứu nếu nó có khả năng thay đổi con người “từ bên trong”. Những người nghĩ to về những vấn đề này dường như cho rằng sự cứu rỗi đất nước thông qua cải cách và việc giải thoát người dân khỏi vũng lầy tinh thần có mối liên hệ chặt chẽ – có lẽ, không thể tách rời – đan xen vào nhau. 

Điều quan trọng là giành lại quyền công dân cho người dân từ “chế độ nông nô” và “nô lệ”. “Đủ rồi!” Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết nổi tiếng thời kỳ đó, tuyên bố. “Đủ dối trá, đủ nô lệ, đủ hèn nhát. Cuối cùng, hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân đáng tự hào của một quốc gia đáng tự hào!”

Đi sâu vào nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville đã có một lưu ý nổi tiếng rằng các chế độ bị lật đổ trong các cuộc cách mạng có xu hướng ít đàn áp hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Bởi vì, de Tocqueville phỏng đoán, mặc dù con người “có thể chịu đựng ít hơn”, “sự nhạy cảm của họ trở nên to lớn hơn.”

Như thường lệ, Tocqueville đang làm một việc cực kỳ quan trọng. Từ những nhà lập quốc ở Mỹ cho đến những người Bolshevik, các nhà cách mạng về cơ bản đã chiến đấu dưới cùng một ngọn cờ: nâng cao phẩm giá con người. Chính trong quá trình tìm kiếm phẩm giá thông qua quyền tự do và quyền công dân mà khả năng lật đổ của cởi mở và minh bạch glasnost vẫn sống–và sẽ tiếp tục sống. 

Giống như các trang báo đòi đổi mới của Ogoniok và Moskovskie Novosti phải tự hào đứng bên cạnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như những biểu tượng của cuộc cách mạng mới nhất ở Nga, các trang Internet bằng tiếng Ả Rập cũng nên đứng như những biểu tượng của cuộc cách mạng hiện tại bên cạnh hình ảnh của những đám đông nổi loạn ở quảng trường Tahrir ở Cairo, quảng trường Casbah ở Tunis, đường phố ở Benghazi và các thị trấn bị phá hủy ở Syria trong các cuộc cách mạng màu gần đây. Thông điệp của họ và cảm xúc mà họ truyền cảm hứng là rất giống nhau.

Người bán trái cây Mohamed Bouazizi, người đã tự thiêu châm ngòi cho cuộc nổi dậy ở Tunisia bắt đầu Mùa xuân Ả Rập năm 2011, đã làm như vậy “không phải vì anh ta thất nghiệp”, một người biểu tình ở Tunis nói với một phóng viên Mỹ, mà “vì anh ta … đã đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] chịu trách nhiệm về vấn đề của anh ấy và anh ấy đã bị đánh – Đây là vấn đề về chính quyền.” 

Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Libya bắt đầu bằng việc đám đông hô vang: “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!” Ở Ai Cập, đám đông “tất cả đều vì quyền tự chủ của một dân tộc bị kìm nén lâu dài không còn sợ hãi, không còn sẵn sàng bị tước đoạt tự do và không còn sẵn sàng bị chính các nhà lãnh đạo của họ sỉ nhục,” nhà bình luận của York Times Thomas Friedman đã báo cáo từ Cairo. Cách báo cáo nầy cũng trùng khớp với hiện trạng ở Moscow vào năm 1991.

Nhân phẩm trước bánh mì!” là khẩu hiệu của cuộc cách mạng Tunisia. Nền kinh tế Tunisia đã tăng trưởng từ 2 đến 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu cao, Libya trên bờ vực nổi dậy cũng được hưởng một sự bùng nổ kinh tế. Các cuộc nổi dậy ở hai nước nầy đều nhắc nhở rằng trong thế giới hiện đại, tiến bộ kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và lòng tự trọng của công dân. 

Trừ khi chúng ta nhớ kỹ điều này, nếu không chúng ta sẽ tiếp tục ngạc nhiên – bởi các “cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu Xô Viết, Mùa xuân Ả Rập, và sớm hay muộn, một biến động dân chủ không thể tránh khỏi ở Trung Quốc – giống như chúng ta đã từng thấy ở Liên Xô. 

Tất nhiên, xung lực đạo đức hào hùng, tìm kiếm chân thiện mỹ chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho công cuộc chấn hưng đất nước thành công. Nó có thể đủ để hạ bệ chế độ cổ xưa, nhưng không đủ để vượt qua một nền văn hóa chính trị quốc gia chuyên chế đã ăn sâu. 

Gốc rễ của các thể chế dân chủ sinh ra từ các cuộc cách mạng mang tính đạo đức có thể tỏ ra quá nông cạn để duy trì một nền dân chủ đang hoạt động trong một xã hội có ít truyền thống quý giá về tự tổ chức và tự trị ở cấp cơ sở. 

Đây là điều có khả năng chứng minh một trở ngại to lớn đối với việc thực hiện lời hứa về Mùa xuân Ả Rập – như nó đã chứng minh ở Nga. Sự phục hưng đạo đức của Nga đã bị cản trở bởi sự ngờ vực do 70 năm chế độ toàn trị gây ra. Và mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã phá bỏ một đế chế, nhưng di sản của tư duy nghe lời đối với hàng triệu người Nga kể từ đó đã khiến họ dễ tiếp nhận chủ nghĩa Putin độc tài mới, với các chủ đề tuyên truyền về “sự bao vây thù địch” và “nước Nga đang quỳ gối”. 

Hơn nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) của chủ nghĩa Stalin chưa bao giờ được khám phá và giải trình đầy đủ, làm hỏng toàn bộ cơ sở đạo đức, giống như những người chủ xưỡng cởi mở và minh bạch glasnost đã nhiệt tình cảnh báo.

Đó là lý do tại sao nước Nga ngày nay lại một lần nữa có vẻ như đang hướng tới một thời điểm cải tổ khác. Mặc dù những cải cách thị trường của những năm 1990 và giá dầu ngày nay đã kết hợp để tạo ra sự thịnh vượng chưa từng có trong lịch sử cho hàng triệu người, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của giới cầm quyền, cơ chế kiểm duyệt kiểu mới và sự coi thường công khai đối với dư luận trong và ngoài nước đã tạo ra sự xa lánh và hoài nghi đang bắt đầu lan rộng (nếu không thực sự vượt qua) so với mức độ xa lánh và hoài nghi ở những năm 1980.

Người ta chỉ cần dành vài ngày ở Moscow để nói chuyện với giới trí thức hoặc tốt hơn nữa là lướt qua các blog trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), nền tảng Internet phổ biến nhất của Nga, hoặc tại các trang web của phe đối lập và độc lập hàng đầu để thấy rằng phương châm của những năm 1980–“Chúng ta không thể sống như thế này nữa!”–đang trở thành tín điều một lần nữa. 

Cũng chính cuộc tìm kiếm trí tuệ và đạo đức cho lòng tự trọng và niềm tự hào, bắt đầu bằng sự xem xét đạo đức thẳng thắng đối với quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã làm rỗng nhà nước Xô viết hùng mạnh, tước bỏ tính hợp pháp và biến nó thành một lớp vỏ cháy rụi vỡ vụn vào tháng 8 năm 1991. Câu chuyện về hành trình trí tuệ và đạo đức này là một câu chuyện hoàn toàn trung tâm về về sự sụp đổ của Liên Xô.

____________

Nguồn:

Aron, L. Foreign Policy – Everything You Think You Know About the Collapse of the Soviet Union Is Wrong. 20/06/2011; Available from: https://foreignpolicy.com/2011/06/20/everything-you-think-you-know-about-the-collapse-of-the-soviet-union-is-wrong/.

 

Tin bài liên quan:

  1. VNTB – Mikhail Gorbachev từ trần ở tuổi 91
  2. VNTB – ‘Căn phòng’ khách sạn 200 đô la một đêm tại FIFA World Cup ở Qatar
  3. VNTB – World Cup 2022 – Tại sao lại Nhật Bản, Hàn Quốc mà không là Trung Cộng?
  4. VNTB – Trung Quốc, cô đơn, kết nối, khởi xướng, xuống đường 

Bài mới hơn

VNTB – Nhà Thơ, Nhà Đấu tranh Thi Vũ Võ Văn Ái qua đời tại Paris

Bài cũ hơn

VNTB – Năm 2023 đầy khó khăn đối với Chính phủ Phạm Minh Chính

CATEGORIES

Thế GiớiTin mớiVNTB

TAGS

chủ nghĩa cộng sảnliên xô sụp đổMikhail GorbachevTS Phạm Đình Bá

Share This

Việt Nam Thời Báo