Tục ngữ là gì? – Theki.vn – Chaolong TV

tuc-ng-la-gi

một câu nói là gì?

1. Khái niệm Tục ngữ.

tục ngữ Đây là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội. Tục ngữ là trí tuệ nên thường được so sánh với “trí tuệ nhân dân”. Trí tuệ ấy rất phong phú mà cũng rất đa dạng, nhưng được thể hiện bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, đầy hình ảnh và nhịp điệu. Tục ngữ có thể coi là văn học dân gian nên thường được nhân dân sử dụng trong đời sống hàng ngày, trong giao tiếp cộng đồng và xã hội, hay hẹp hơn là lời nói, lời khuyên.

Theo Nguyễn Lân của “Từ Điển Thành Ngữ Và Tục Ngữ Việt Nam”: Tục ngữ là những câu hoàn chỉnh, có ý nghĩa trọn vẹn, diễn đạt hoặc đưa ra một nhận xét tâm lý, hoặc một lời phê bình, khen hoặc chê, hoặc một câu khuyên nhủ, hoặc một kinh nghiệm tự nhiên của tư duy.“.

Tục ngữ được hình thành từ thực tiễn đời sống, lao động sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; có thể tách khỏi tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; có thể vẽ tác phẩm văn học thông qua văn học dân gian bằng những từ đẹp hoặc từ vay mượn nước ngoài.

Số lượng tục ngữ Việt Nam do người lao động sáng tạo và trao tặng, được tích luỹ qua một thời gian dài rất phong phú. Tục ngữ đưa ra lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân dưới hình thức diễn đạt ngắn gọn, rất khái quát. Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian nhằm củng cố kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền tai nhau.

2. Nội dung cụ thể.

Tục ngữ dựa trên sự thật, dựa trên lý trí nhiều hơn là cảm xúc. Những suy nghĩ được thể hiện trong câu tục ngữ là những suy nghĩ sâu sắc, sắc bén được rút ra từ cuộc sống. Trong các câu tục ngữ, phản đề là mạnh nhất.

Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau những trải nghiệm của nhân dân về lao động, sản xuất, đời sống gia đình và cộng đồng. Nội dung đó phong phú, vững chắc là do được nhiều thế hệ nhân dân đúc kết.

Ví dụ:

– Mưa mù mịt lắm.
– Mùa đông thì nắng, khi không thì mưa.
– Cà ri và hạt tiêu.
– Sự hỗn loạn.
– Mang rắn cắn gà.

3. Bản chất hình thức.

Tục ngữ lúc đầu là những câu đơn giản, logic, sau dần trở thành những câu đối có vần điệu, nhuần nhuyễn hơn. Tục ngữ không cần thiết nhưng đa số đều có vần, hoặc có đối.

Ví dụ:

– Rất no, rất đói, rất đói.
– Bút vào, gà chết.
– Lên cơn co giật.

Cũng có câu gieo vần, cách quãng hai chữ, ba chữ.

– May mắn hơn hoặc thuốc men.
– Đi chợ ăn quà, về nhà đánh đòn con.
– Tháng bảy may mắn, én bay khi có bão.
– Gà cựa dài thịt chắc, gà cựa ngắn thịt mềm.

Hoặc lục giác:

– Cá tươi, tìm mang.
Người khôn lấy hai hàng tóc mai.

– Mẹ già như ánh trăng,
Khẽ soi bước con hiền.

Hầu hết các câu tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: ở yếu tố vần, ở vế đối, ở vế đối, theo tổ chức ngôn ngữ thơ… Ngắt nhịp là yếu tố tạo nên sự cân đối, nhịp điệu, cấu trúc vững chãi cho câu tục ngữ. . . Hình thức đối lập: đối âm, đối lập. Một câu Tục ngữ có thể có 1 phần, với 1 nhận định, nhưng cũng có thể gồm nhiều phần, với nhiều nhận định.

Tóm lại, xét về mức độ phong phú về nội dung và hình thức, có thể thấy tục ngữ được phát triển. Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có khuynh hướng kết luận, khái quát từ cụ thể thành phương châm, chân lý. Hình tượng tục ngữ là một hình tượng ngôn ngữ được xây dựng từ các bước so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.

4. Xác định các câu tục ngữ, câu nói.

tục ngữ là câu hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ một ý với nội dung bình luận về quan hệ xã hội, nêu kinh nghiệm sống, nêu bài học đạo đức hoặc phê phán sự việc. Vì vậy, có thể coi một câu tục ngữ là một “tác phẩm văn học” hoàn chỉnh bởi nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ và chức năng giáo dục.

Chức năng nhận thức của câu tục ngữ này là giúp mọi người hiểu rằng cơ sở của quan hệ vợ chồng là bình đẳng, dân chủ và thông cảm lẫn nhau.

– Mục đích giáo dục của nó là góp phần đưa tình cảm giữa con người với con người theo chiều hướng tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng nói riêng và trong quan hệ xã hội nói chung.

– Chức năng thẩm mỹ của nó là chuyển tải nội dung nên người ta dùng từ ngữ, hình ảnh mạnh để nhanh chóng lôi cuốn, tiếp thu người đọc.

– tục ngữ là cụm từ cố định quen thuộc. Về mặt ngữ pháp, nó không thể là một câu hoàn chỉnh, vì vậy nó chỉ tương đương với một từ.

+ Thành ngữ không thể hiện một lời bình luận, một kinh nghiệm sống, một bài học đạo đức hay một lời phê phán nên thường chỉ có chức năng thẩm mỹ chứ không có chức năng nhận thức, giáo dục, nhưng nếu thiếu hai chức năng này thì không thể là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Vì vậy, thành ngữ thuộc về ngôn ngữ.

+ Tuy được diễn đạt trong sáng, trực quan (chức năng thẩm mĩ) nhưng thành ngữ trên chưa đem lại cho người đời hiểu biết về lẽ sống và bài học về quan hệ con người trong xã hội (chức năng nhận thức, giáo dục).