Tư duy mới của Đảng về hoàn thiện chính sách, pháp luật quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Những năm qua, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng ta về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ảnh minh họa
Tầm nhìn và quan điểm mới của Đảng đối với chiến lược quốc phòng
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bổ sung hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. Chủ động tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh”(1). Đây vừa là định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh, vừa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng trở thành định hướng cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong quá trình triển khai thực hiện, cần chủ động kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại theo đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược An ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh, chuyên ngành khác”(2). Đây là một trong những nội dung quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành những văn bản quy phạm pháp luật như Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật An ninh mạng, Nghị định về đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh… và các ấn phẩm như Sách trắng Quốc phòng, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam…; các quy định của Chính phủ về kết hợp các hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại; bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Qua đó, tạo sự thống nhất về nhận thức và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong phạm vi cả nước, từng ngành và từng địa phương.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, chúng ta đã từng bước tăng cường tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước; sức mạnh quân sự, quốc phòng, an ninh không ngừng lớn mạnh; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố vững chắc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(3). Đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các luật chuyên ngành, nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia.
Cùng với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng, an ninh với quan điểm hòa bình, hợp tác, tự vệ… thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việc xây dựng sức mạnh quốc phòng, an ninh dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Ngày nay, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh không chỉ nhằm chống “thù trong, giặc ngoài” như trước, mà có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; như Đảng ta đã chỉ rõ: “Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phúc tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đang đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”(4). Mặt khác, các tình huống quốc phòng, an ninh cùng những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đối với nước ta ngày một gia tăng, nhất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Đây vừa là giải pháp cơ bản, vừa là định hướng về tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(5). Trong đó, quan điểm mang tính nhất quán, xuyên suốt là: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”(6); ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì vậy, cần thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có hệ thống, đồng bộ, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, hiệu quả từ Trung ương đến các địa phương.
Trọng tâm là tiếp tục triển khai quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(7), và: “Chủ động ngăn chặn các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”(8).
Hai là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Các văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng bảo đảm thống nhất, đồng bộ và liên thông trong toàn hệ thống pháp luật; phù hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và theo lộ trình phù hợp. Thời gian tới, cần tiếp tục xem xét, ban hành một số luật mà nội dung được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, như Luật về tình trạng khẩn cấp, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh, Luật về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế; Luật Phòng thủ dân sự, Luật Biên phòng Việt Nam… Trong đó, Luật về tình trạng khẩn cấp sẽ điều chỉnh việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình huống đặc biệt, cần được tiến hành xây dựng khẩn trương để sớm tạo dựng hành lang pháp lý, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các quyền tự do, dân chủ của công dân ngày càng được mở rộng, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Cần tiếp tục nghiên cứu xác lập và vận hành cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, sát với điều kiện, đặc điểm, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa chính sách, pháp luật trong các tình huống và trạng thái quốc phòng, quân sự, các quy chế, quy trình, thủ tục trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương trong xử trí các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, xung đột vũ trang hoặc chiến tranh; điều chỉnh, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách quốc phòng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường trong thời kỳ mới.
Bốn là, bám sát sự phát triển của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng, trung tâm nghiên cứu, hệ thống học viện, nhà trường đẩy mạnh nghiên cứu, tham gia tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận nói chung, lý luận về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói riêng, làm cơ sở để tham mưu cho Đảng, Nhà nước những luận cứ khoa học về kết hợp nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc. Bộ Quốc phòng và Bộ Công an cần tích cực nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; hình thành tư duy, quan điểm mới liên quan đến sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng Quân đội và Công an nhân dân, cung cấp luận cứ để Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật về kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong tình hình mới.
Sự nghiệp xây dựng sức mạnh quốc phòng, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước nhiều vấn đề mới, phức tạp đã tác động đến nhận thức, tư duy lý luận, xây dựng thế trận, lực lượng… Vì vậy, cần đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo khoa học để làm cơ sở đề xuất, tham mưu cho việc hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Các cơ quan, đơn vị chức năng của Quân đội cần bám sát đường lối của Đảng; chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; đề cao trách nhiệm chính trị, tiếp tục làm tốt công tác tham mưu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật về quốc phòng, quân sự phù hợp với thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
————————–
Ghi chú:
(1),(2),(3),(4),(5),(6),(7),(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.160, tr.160, tr.160-161, tr.107, tr.160-161, tr.156, tr.157-158, tr.117.
Thượng tướng VÕ MINH LƯƠNG – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
tcnn.vn