Tranh chấp trong hợp đồng ngoại thương

  1. PHÁT TRIỂN &

    HỘI NHẬP Số 9 (19) – Tháng 03-04/2013
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    64
    Tranh chấp phát sinh từ hợp
    đồng thương mại quốc tế luôn
    là tranh chấp rất phức tạp và mất
    nhiều thời gian để giải quyết xuất
    phát đặc điểm về yếu tố nước ngoài
    và luật áp dụng của hợp đồng.
    Chính vì vậy, khi tranh chấp đã
    phát sinh, việc tìm kiếm một giải
    pháp nhằm nhanh chóng giải quyết
    tranh chấp luôn là mục tiêu của các
    bên chủ thể tham gia quan hệ hợp
    đồng. Có nhiều cách thức đã được
    sử dụng trong thực tiễn ký kết và
    thực hiện hợp đồng thương mại
    quốc tế trong đó đàm phán và đưa
    vào nội dung hợp đồng một số điều
    khoản đặc biệt là một trong những
    biện pháp phổ biến và hiệu quả
    nhất. Xuất phát từ góc độ pháp lý,
    bài viết sau đây xin phân tích nội
    dung cũng như cách thức thể hiện
    ba trong số các điều khoản đặc biệt
    đó: Điều khoản về những trường
    hợp bất khả kháng; Điều khoản
    khó khăn trở ngại (điều khoản
    hardship); Điều khoản về luật áp
    dụng. Việc nghiên cứu các điều
    khoản này sẽ góp phần quan trọng
    giúp doanh nghiệp VN giảm bớt
    chi phí trong quá trình giải quyết
    tranh chấp cũng như nâng cao khả
    năng hội nhập quốc tế của VN khi
    tham gia vào các quan hệ thương
    mại quốc tế.
    1. Một số đặc điểm cơ bản của
    hợp đồng thương mại quốc tế
    (HĐTMQT)
    1.1 Đặc điểm về yếu tố nước
    ngoài
    Hiện nay về mặt lý luận vẫn
    chưa có một định nghĩa thống nhất
    về HĐTMQT. Có nhiều định nghĩa
    khác nhau được đưa ra căn cứ vào
    những tiêu chí khác nhau nhằm
    mục đích xác định yếu tố nước
    ngoài hoặc tính quốc tế của loại
    hợp đồng này. Một trong những
    cách xác định yếu tố nước ngoài
    của HĐTMQT là dựa trên dấu hiệu
    quốc tịch của chủ thể tham gia.
    Theo đó, HĐTMQT là hợp đồng
    được ký kết giữa các bên thương
    nhân có quốc tịch khác nhau. Ví
    dụ:Theo quy định tại điểm 1 khoản
    1 Điều 81 Luật Thương mại VN
    năm 1997 thì HĐTMQT là hợp
    đồng được ký kết giữa một bên là
    thương nhân VN với một bên là
    thương nhân nước ngoài. Có quan
    điểm khác lại căn cứ vào tiêu chí
    trụ sở thương mại để xác định tính
    quốc tế của hợp đồng. Theo đó,
    HĐTMQTlàhợpđồngđượckýkết
    bởi các bên có trụ sở thương mại
    nằm trên lãnh thổ của các quốc gia
    khác nhau. Tiêu chí trụ sở thương
    mại được sử dụng trong pháp luật
    của nhiều nước, đặc biệt là các điều
    ước quốc tế. Ví dụ: Công ước La
    Haye năm 1964 về Luật thống nhất
    vềmuabánhànghóaquốctế;Công
    T
    rên cơ sở phân tích một số điều khoản đặc biệt trong hợp đồng thương
    mại quốc tế tác giả đề xuất cơ chế có thể giảm thiểu phát sinh tranh
    chấp từ hợp đồng thông qua việc xây dựng các điều khoản này trong
    nội dung hợp đồng. Trong trường hợp tranh chấp đã phát sinh, các bên tham gia
    tranh chấp có thể vận dụng các điều khoản này để giải quyết nhanh chóng và hiệu
    quả, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
    Từ khóa: Hợp đồng thương mại quốc tế, tranh chấp hợp đồng thương mại
    quốc tế, soạn thảo hợp đồng thương mại quốc tế.
    Giải quyết tranh chấp phát sinh
    từ hợp đồng thương mại quốc tế
    thông qua các điều khoản đặc biệt
    của hợp đồng
    BÀNH QUỐC TUẤN
    Đại học Kinh tế – Luật TP.HCM

  2. Số 9 (19)

    – Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    65
    ước La Haye năm 1964 về Luật
    thống nhất về ký kết hợp đồng mua
    bán hàng hóa quốc tế (Cả hai công
    ước này được ban hành bởi Viện
    quốc tế về nhất thể hóa luật tư –
    UNIDROIT)1
    ; Công ước La Haye
    ngày 15 tháng 6 năm 1955 về Luật
    áp dụng đối với mua bán hàng hóa
    quốc tế, Công ước La Haye ngày
    22 tháng 12 năm 1986 về Luật áp
    dụng cho hợp đồng mua bán hàng
    hóa quốc tế (các Công ước này
    được ban hành trong khuôn khổ
    Hội nghị La Haye về Tư pháp
    quốc tế – Hague Conference on
    Private International Law); Công
    ước Viên năm 1980 về hợp đồng
    mua bán hàng hóa quốc tế (Công
    ước này được xây dựng bởi Ủy ban
    pháp luật thương mại quốc tế của
    Liên Hiệp Quốc – UNCITRAL)2
    ;
    Công ước Geneva năm 1983 về
    đại diện trong mua bán quốc tế; …
    Tất cả các công ước trên đều quy
    định rằng HĐTMQT là hợp đồng
    được ký kết giữa các bên có trụ sở
    thương mại nằm trên lãnh thổ của
    các quốc gia khác nhau.
    Như vậy, dù có sự khác nhau
    trong việc xác định tính quốc tế
    nhưng các định nghĩa HĐTMQT
    đềuthốngnhấtrằnghợpHĐTMQT
    khác với hợp đồng thương mại
    trong nước bởi “tính quốc tế”. Nói
    cách khác, HĐTMQT luôn có sự
    hiện diện của “yếu tố nước ngoài”.
    Chính tính quốc tế của HĐTMQT
    đã làm cho loại hợp đồng này liên
    quan đến nhiều hệ thống pháp luật
    của các nước khác nhau và từ đó
    việc lựa chọn một hệ thống pháp
    luật để điều chỉnh các vấn đề có
    liênquancủahợpđồnglàmộttrong
    những vấn đề quan trọng trong quá
    trình đàm phán, ký kết hợp đồng.
    1
    Xem Điều 1 các Công ước La Haye năm
    1964.
    2
    Xem khoản 1 Điều 1 Công ước Vienna năm
    1980.
    Việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh
    hợp đồng còn ảnh hưởng quyết
    định đến việc giải quyết các tranh
    chấp phát sinh từ HĐTMQT bởi
    lẽ hệ thống pháp luật đã được lựa
    chọn áp dụng là cơ sở pháp lý để
    cơ quan có thẩm quyền giải quyết
    các nội dung tranh chấp liên quan
    đến hợp đồng và điều này cũng dẫn
    đến hiện tượng cùng một vấn đề
    trong HĐTMQT nhưng cách giải
    quyết sẽ khác nhau dẫn đến kết quả
    cũng khác nhau khi áp dụng các hệ
    thống pháp luật của các quốc gia
    khác nhau.
    1.2 Đặc điểm về luật áp dụng
    Xuất phát từ đặc điểm về yếu
    tố nước ngoài, khi tranh chấp phát
    sinh từ HĐTMQT đã xảy ra trên
    thực tế sẽ có nhiều hệ thống pháp
    luật khác nhau có thể được áp dụng
    để giải quyết. Tuy nhiên, việc áp
    dụng hệ thống pháp luật nào được
    áp dụng trên thực tế phụ thuộc vào
    nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
    quan trọng nhất là cơ quan nào có
    thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
    Bởi lẽ cơ quan có thẩm quyền
    giải quyết tranh chấp sẽ là chủ
    thể quyết định hệ thống pháp luật
    áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp
    đồng. Tranh chấp về HĐTMQT có
    thể được giải quyết ở cơ quan tài
    phán nước này nhưng cũng có thể
    ở cơ quan tài phán nước khác3
    . Về
    cơ bản, trong lý luận và thực tiễn
    giải quyết tranh chấp HĐTMQT
    có hai cơ quan thường xuyên được
    các bên yêu cầu giải quyết là Trọng
    tài thương mại và Tòa án. Mỗi cơ
    quan đều có cơ chế riêng để xác
    định pháp luật áp dụng cho hợp
    3
    Về vấn đề xác định cơ quan tài phán có
    thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế xin xem
    thêm: Bành Quốc Tuấn, Từ một quy định về
    thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu
    tố nước ngoài của tòa án, Tạp chí Nghiên cứu
    lập pháp, số 24(161), tháng 12/2009, tr. 44
    – tr. 48.
    đồng.
    -Trườnghợpcơquangiảiquyết
    tranh chấp là Trọng tài thương mại:
    Pháp luật các nước đều có quy
    định về tổ chức và hoạt động của
    tổ chức Trọng tài thương mại. Tại
    VN, hiện nay cơ cở pháp lý điều
    chỉnh tổ chức và hoạt động của
    Trọng tài thương mại là LuậtTrọng
    tài thương mại 2010. Bên cạnh các
    đạo luật quốc gia, tổ chức và hoạt
    động của Trọng tài thương mại còn
    được điều chỉnh bởi các điều ước
    quốc tế về trọng tài, quy tắc tố tụng
    trọng tài của các tổ chức trọng tài
    trên thế giới, thậm chí, các hiệp
    định thương mại song phương, đa
    phương. Các văn bản pháp luật
    trên đều ghi nhận một trong những
    nguyên tắc cơ bản để xác định luật
    áp dụng cho HĐTMQT là luật do
    cácbênchủthểthỏathuậnlựachọn.
    Tuy nhiên, hệ thống pháp luật được
    lựa chọn không có nghĩa là tự do
    mà vẫn phải tuân thủ quy định của
    pháp luật trong nước có Trọng tài
    thương mại giải quyết tranh chấp
    cũng như các điều ước quốc tế
    có liên quan mà nước đó là thành
    viên. Chẳng hạn khoản 1 Điều 33
    Quy tắc tố tụng trọng tài của Ủy
    ban pháp luật thương mại quốc tế
    củaLiênHiệpQuốc(UNCITRAL)
    quy định: “Hội đồng trọng tài phải
    áp dụng luật mà các bên lựa chọn
    áp dụng cho nội dung tranh chấp”4
    ;
    Tương tự, khoản 2 Điều 14 Luật
    Trọng tài thương mại năm 2010
    quy định: “Đối với tranh chấp có
    yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng
    tàiápdụngphápluậtdocácbênlựa
    chọn”. Như vậy, khi thỏa thuận lựa
    chọn Trọng tài có thẩm quyền giải
    quyết tranh chấp của một nước,
    4
    Xem Tuyển tập một số văn bản về Trọng
    tài và hòa giải thương mại, Bản dịch tiếng
    Việt của Nhà pháp luật Việt – Pháp – Nhà
    xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2010,
    tr. 82.

  3. PHÁT TRIỂN &

    HỘI NHẬP Số 9 (19) – Tháng 03-04/2013
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    66
    các bên chủ thể hợp đồng cần phải
    xem xét cả những quy định pháp
    luật của nước đó, điều ước quốc tế
    mà nước đó là thành viên có liên
    quan và quy tắc trọng tài được
    Trung tâm trọng tài áp dụng để biết
    được pháp luật mà họ thỏa thuận
    lựa chọn áp dụng có đáp ứng các
    điều kiện về chọn luật hay không.
    Trong trường hợp các bên không
    thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng
    hoặc theo quy định của pháp luật
    quốc gia nơi có Trọng tài thương
    mại giải quyết tranh chấp pháp luật
    được lựa chọn không hợp pháp thì
    Trọng tài thương mại sẽ căn cứ vào
    quy định của pháp luật nước mình
    để xác định luật áp dụng cho hợp
    đồng.
    – Trường hợp cơ quan giải
    quyết tranh chấp là Tòa án: Tòa án
    là cơ quan nằm trong hệ thống bộ
    máy chính quyền của một quốc gia
    nên về nguyên tắc, pháp luật của
    nước có Tòa án có thẩm quyền giải
    quyết tranh chấp sẽ được áp dụng
    để điều chỉnh các vấn đề có liên
    quan đến quá trình giải quyết tranh
    chấp phát sinh từ HĐTMQT trong
    đó có vấn đề xác định luật áp dụng
    cho hợp đồng. Pháp luật quốc gia
    của các nước trên thế giới đều có
    những nguyên tắc để đánh giá tính
    hợp pháp của pháp luật do các bên
    chủ thể hợp đồng thỏa thuận lựa
    chọn hoặc để xác định luật áp dụng
    trong trường hợp các bên không
    thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng
    hoặc theo quy định của pháp luật
    quốc gia nơi có Tòa án giải quyết
    tranh chấp pháp luật được lựa
    chọn không hợp pháp. Ví dụ: Theo
    quy định tại khoản 1 Điều 769 Bộ
    Luật dân sự năm 2005 thì “Quyền
    và nghĩa vụ của các bên theo hợp
    đồng dân sự được xác định theo
    pháp luật của nước nơi thực hiện
    hợp đồng, nếu không có thỏa thuận
    khác”. Như vậy, quy định của pháp
    luật quốc gia nơi cóTòa án có thẩm
    quyền giải quyết tranh chấp sẽ là
    cơ sở pháp lý để xem xét tính hợp
    pháp của hệ thống pháp luật áp
    dụng điều chỉnh HĐTMQT. Các
    quy định này trên thực tế là không
    giống nhau. Chính vì vậy, một hệ
    thống pháp luật có thể được áp
    dụnggiảiquyếttranhchấpphátsinh
    từ HĐTMQT theo pháp luật nước
    này nhưng lại không được chấp
    nhận ở nước khác. Điều này đòi
    hỏi các bên chủ thể khi quyết định
    lựa chọn pháp luật của một nước
    nhất định áp dụng cho hợp đồng
    còn phải tìm hiểu một cách đầy đủ
    Tư pháp quốc tế của nước có Tòa
    án có thẩm quyền giải quyết tranh
    chấp liên quan đến HĐTMQT đó.
    Phân tích mối liên hệ giữa cơ
    quan có thẩm quyền giải quyết
    tranh chấp HĐTMQT với luật áp
    dụng cho hợp đồng chúng ta thấy
    giữa hai vấn đề này có mối liên hệ
    chặt chẽ với nhau bởi lẽ khi đã xác
    định được thẩm quyền giải quyết
    tranh chấp thuộc về cơ quan tài
    phán nước nào sẽ xác định được
    tính hợp pháp của hệ thống pháp
    luật áp dụng cho HĐTMQT đó.
    Chính vì vậy, trong quá trình soạn
    thảo các điều khoản hợp đồng, bên
    cạnh điều khoản về luật áp dụng,
    các bên cần chú ý đến cơ quan có
    thẩm quyền giải quyết để đảm bảo
    trong trường hợp phát sinh tranh
    chấp các nội dung về luật áp dụng
    đã được các bên xây dựng trong
    hợp đồng sẽ được áp điều chỉnh
    các vấn đề phát sinh.
    2. Một số điều khoản đặc biệt
    góp phần giải quyết tranh chấp
    phát sinh từ HĐTMQT
    2.1 Điều khoản về những trường
    hợp bất khả kháng
    Điều khoản về những trường
    hợp bất khả kháng được hiểu là
    điều khoản về những trường hợp
    mà khi xảy ra các bên không phải
    chịu trách nhiệm dù đã có hành vi
    vi phạm hợp đồng. Khái niệm “bất
    khả kháng” được hình thành và
    xây dựng từ Học thuyết Frustration
    (“frustration of contract”5
    ) và Học
    thuyết về việc không thể thực hiện
    được nghĩa vụ của hệ thống pháp
    luật Anglo – Saxon (Common
    Law). Ngoài ra, khái niệm “bất khả
    kháng” còn được ghi nhận trong hệ
    thống pháp luật dân sự (Civil Law)
    với thuật ngữ được sử dụng là
    “force majeure”. Ngày nay, trong
    thực tiễn thương mại quốc tế đây là
    5
    Đây là một học thuyết rất phổ biến tại châu
    Âu xuất phát từ lĩnh vực pháp luật hàng hải.
    Về học thuyết này xin xem thêm Nhà pháp
    luật Việt – Pháp, Các thuật ngữ hợp đồng
    thông dụng, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa,
    Hà Nội, 2011, tr. 422 – tr. 427.

  4. Số 9 (19)

    – Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    67
    một điều khoản rất phổ biến được
    các bên quan tâm và đưa vào hợp
    đồng. Những trường hợp bất khả
    kháng mà các bên ký kết hợp đồng
    thường đưa vào là những sự kiện
    xảy ra ngoài tự nhiên không phụ
    thuộcvàoýmuốnchủquancủacác
    bên như động đất, bão, lũ lụt, …
    hoặc những sự kiện khác theo thỏa
    thuận của các bên ký kết hợp đồng.
    Một sự kiện được xem là trường
    hợp bất khả kháng khi thỏa mãn
    các điều kiện sau đây: (i) Sự kiện
    đó xảy ra ngoài ý muốn của các
    bên trong quan hệ hợp đồng hoặc
    đã được các bên thỏa thuận trước
    trong hợp đồng; và (ii) Các bên chủ
    thể hợp đồng không thể biết trước
    được việc xảy ra các sự kiện đó,
    và; iii. Khi sự kiện đó đã xảy ra các
    bên đã thực hiện mọi biện pháp cần
    thiết để khắc phục hậu quả nhưng
    không thể khắc phục được. Nếu
    bên vi phạm hợp đồng chứng minh
    rằng các điều kiện trên đã thỏa mãn
    thì sẽ được miễn các trách nhiệm
    phát sinh từ hành vi vi phạm hợp
    đồng. Tuy nhiên, cần chú ý rằng
    vì pháp luật mỗi quốc gia đều có
    những quy định cụ thể khác nhau
    về giải thích các trường hợp bất
    khả kháng, phạm vi những sự kiện
    được xem là bất khả kháng. Vì vậy,
    các bên chủ thể hợp đồng cần thỏa
    thuận thật cụ thể trong hợp đồng
    các nội dung liên quan đến điều
    khoản này.
    Trường hợp bất khả kháng
    được quy định cụ thể trong pháp
    luậtVN. Khoản 7 Điều 2 Pháp lệnh
    trọng tài thương mại năm 2003 quy
    định: “Sự kiện bất khả kháng là sự
    kiện xảy ra một cách khách quan
    không thể lường trước được và
    không thể khắc phục được mặc dù
    đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
    mà khả năng cho phép”. Tương tự,
    khoản 2 Điều 302 Bộ Luật dân sự
    năm 2005 quy định: “Trong trường
    hợpbêncónghĩavụkhôngthểthực
    hiện được nghĩa vụ dân sự do sự
    kiện bất khả kháng thì không phải
    chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường
    hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
    luật có quy định khác”. Điểm b
    khoản 1 Luật Thương mại 2005
    quy định Bên vi phạm hợp đồng
    được miễn trách nhiệm trong các
    trường hợp xảy ra sự kiện bất khả
    kháng. Tham khảo kinh nghiệm
    lập pháp quốc tế chúng ta thấy điều
    khoản về “bất khả kháng” hoặc
    điều khoản về miễn trách nhiệm
    được ghi nhận trong nhiều điều
    ước quốc tế cũng như pháp luật
    các nước. Tuy nhiên, nội dung cụ
    thể của pháp luật các nước rất khác
    nhau về những trường hợp được
    xem là trường hợp bất khả kháng.
    Để tạo điều kiện thuận lợi cho các
    chủ thể soạn thảo điều khoản này
    Phòng thương mại quốc tế (ICC)
    đã xây dựng điều khoản mẫu về
    “bất khả kháng” và “khó khăn trở
    ngại” để các bên có thể tham khảo6
    .
    Ngoài ra, điều khoản bất khả kháng
    còn được xây dựng rất cụ thể tại
    Điều 7.1.7 Bộ nguyên tắc của
    UNIDROIT về hợp đồng thương
    mại quốc tế năm 20047
    ; Bộ nguyên
    tắc pháp luật hợp đồng của châu
    Âu (The Principles Of European
    Contract Law – PECL hoặc PDEC
    theo tiếng Pháp); Bộ Luật châu Âu
    về hợp đồng (Dự luật PAVIE được
    soạn thảo bởi Viện các Luật gia tư
    pháp Pavie). Pháp luật các quốc
    gia cũng điều có quy định về điều
    khoản bất khả kháng như Bộ Luật
    dân sự Pháp (Điều 1147), Bộ Luật
    6
    Xem Trung tâm thương mại quốc tế, Trọng
    tài và các phương thức giải quyết tranh chấp
    lựa chọn – Giải quyết các tranh chấp thương
    mại như thế nào, tr. 59 – tr. 60.
    7
    Xem Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp
    đồng thương mại quốc tế 2004 – Nhà xuất
    bản Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 326 – tr. 330.
    dân sự Đức (BGB – khoản 1 Điều
    275, khoản 2 Điều 311a), Bộ Luật
    dân sự Ý năm 1942 (Điều 1497),
    pháp luật Hoa Kỳ (tiểu mục 2-615
    Bộ Luật thương mại thống nhất
    Hoa Kỳ – Uniform Commercial
    Code), …
    Trong thực tế chỉ có các sự
    kiện xảy ra mang tính tự nhiên ảnh
    hưởng trực tiếp đến việc thực hiện
    hợp đồng như động đất, bão lụt, núi
    lửa hoạt động, sóng thần, … mới
    được xem là sự kiện bất khả kháng
    mặc nhiên, nghĩa là bên vi phạm
    hợp đồng không cần phải chứng
    minh mà vẫn được miễn trách
    nhiệm. Ngược lại, bên cho rằng đó
    không phải là các sự kiện bất khả
    kháng để buộc bên kia phải chịu
    trách nhiệm thì phải chứng minh,
    nếu không chứng minh được hoặc
    chứng minh không có cơ sở thì các
    trường hợp đó được xem là bất khả
    kháng. Ngược lại, một số trường
    hợp khác cũng ảnh hưởng đến việc
    thực hiện hợp đồng như: chiến
    tranh, đình công, bạo loạn, khủng
    bố, kiểm dịch, … không được xem
    là các trường hợp bất khả kháng
    đương nhiên, bên vi phạm không
    được miễn trừ trách nhiệm. Muốn
    trở thành trường hợp miễn trừ các
    bên phải thỏa thuận và ghi cụ thể
    vào hợp đồng và trong quá trình
    thực hiện hợp đồng, nếu các trường
    hợp này đã xảy ra đúng như dự liệu
    thì bên vi phạm sẽ được miễn trừ
    trách nhiệm.
    2.2 Điều khoản khó khăn trở ngại
    (điều khoản hardship)
    Điều khoản hardship được hiểu
    là điều khoản về những trường
    hợp mà khi xảy ra làm thay đổi
    một cách căn bản về tính cân bằng
    của hợp đồng (thường là liên quan
    đến lợi ích) đã được các bên thỏa
    thuận quy định trước đó trong hợp
    đồng. Ví dụ: đồng tiền được thỏa

  5. PHÁT TRIỂN &

    HỘI NHẬP Số 9 (19) – Tháng 03-04/2013
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    68
    thuận dùng thanh toán bị mất giá,
    giá cả hàng hóa mua bán tăng hoặc
    giảm một cách đáng kể, … Khi
    những trường hợp này xảy ra bên
    bị thiệt hại có quyền yêu cầu đàm
    phán lại hợp đồng hoặc yêu cầu cơ
    quan có thẩm quyền chấm dứt hợp
    đồng nếu bên còn lại không chấp
    nhận đàm phán lại. Đây là loại điều
    khoản tương đối mới mẻ trong
    thương mại quốc tế và chưa được
    quy định trong pháp luật nhiều
    nước như là một điều khoản có thể
    viện dẫn áp dụng trong hợp đồng.
    Pháp luật một số nước sử dụng các
    khái niệm “frustration of purpose”
    theo tiếng Anh hoặc “Wegfall der
    Geschaftsgrundlage” theo tiếng
    Đức, “Excessive One Rosita
    Sopravvenuta” theo tiếng Ý (tạm
    hiểu là một bên chủ thể hợp đồng
    có thể thoát khỏi thực hiện nghĩa
    vụ hợp đồng khi hợp đồng không
    đạt được các mục đích đặt ra xét
    ở góc độ kinh tế) để diễn tả điều
    khoản này8
    . Hiện tại, chúng ta có
    thể tham khảo “Điều khoản mẫu về
    khó khăn trở ngại” tại ấn phẩm số
    421 của Phòng thương mại quốc tế
    (ICC), Điều khoản bất khả kháng
    tại Điều 79 Công ước năm 1980
    của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng
    mua bán hàng hóa quốc tế (CISG),
    Điều khoản về bất khả kháng trong
    tập quán USB 600 của ICC, Điều
    khoản hardship trong Bộ nguyên
    tắc của UNIDROIT về hợp đồng
    thương mại quốc tế năm 2004
    (Điều 6.2.1, Điều 6.2.2 và Điều
    6.2.3), Bộ nguyên tắc pháp luật
    hợp đồng của châu Âu (PECL).
    Những điều khoản này có giá trị
    hướng dẫn nhằm giúp các bên chủ
    thể hợp đồng tham khảo trong quá
    8
    Xem thêm Nhà pháp luật Việt – Pháp, Các
    thuật ngữ hợp đồng thông dụng, NXB Từ
    điển Bách khoa, Hà Nội, 2011, tr. 425 – tr.
    427.
    trình đàm phán, ký kết hợp đồng.
    Tuy nhiên, pháp luật VN hiện
    hành chưa có quy định nào về điều
    khoản này.
    Điều 6.2.2 Bộ nguyên tắc của
    UNIDROIT về hợp đồng thương
    mại quốc tế năm 2004 định nghĩa:
    “Hoàn cảnh hardship được xác lập
    khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi
    cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa
    vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực
    hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá
    trịcủanghĩavụđổitrừgiảmxuống,
    và: (a) Các sự kiện này xảy ra hoặc
    được bên bị thiệt hại biết đến sau
    khi giao kết hợp đồng; (b) Bên bị
    bất lợi đã không thể tính một cách
    hợp lý đến các sự kiện đó khi giao
    kết hợp đồng; (c) Các sự kiện này
    nằm ngoài sự kiểm soát của bên
    bị bất lợi; và (d) Rủi ro về các sự
    kiện này không được bên bị bất
    lợi gánh chịu.”9
    Như vậy, để điều
    khoản hardship được chấp nhận
    phải thỏa mãn điều kiện cơ bản là
    sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp
    đồng bị thay đổi cơ bản. Điều này
    thể hiện ở chi phí thực hiện nghĩa
    vụ tăng lên (do giá nguyên vật liệu
    cần thiết cho việc sản xuất hàng
    hóa hoặc cung ứng dịch vụ tăng
    mạnh, do các quy định mới về an
    toàn làm cho chi phí cho quy trình
    sản xuất tăng lên rất nhiều, …)
    cũng như giá trị của nghĩa vụ đổi
    trừ giảm xuống, bao gồm cả trường
    hợp việc thực hiện nghĩa vụ không
    còn giá trị gì đối với bên có quyền
    (việc tăng lạm phát đột ngột đối
    với giá thỏa thuận trong hợp đồng,
    lệnh cấm xây dựng của nhà nước
    đối với một diện tích đất được thuê
    để xây dựng công trình, lệnh cấm
    xuất khẩu hàng hóa, …). Ngoài ra,
    9
    Xem Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp
    đồng thương mại quốc tế 2004 – NXB Tư
    pháp, Hà Nội, 2005, tr. 295 – tr. 296.
    điều khoản hardship còn phải thỏa
    mãn các điều kiện bổ sung là các
    điều kiện này phải xả ra hoặc biết
    đến sau khi giao kết hợp đồng, nếu
    cán bên đã biết trước các sự kiện
    đó vào thời điểm giao kết hợp đồng
    thì không bên nào được viện dẫn
    điều khoản hardship. Bên cạnh đó,
    bên bị bất lợi do các sự kiện này
    đã không thể tính đến các sự kiện
    đó một cách hợp lý, nếu những sự
    kiện này có thể được dự đoán trước
    được do các biểu hiện trên thực
    tế (chiến tranh sắp nổ ra, khủng
    hoảng chính trị đăng tăng cao,
    …) thì các bên cũng không được
    viện dẫn điều khoản hardship, các
    sự kiện này cũng nằm ngoài sự
    kiểm soát của bên bị bất lợi và rủi
    ro không được bên bị bất lợi gánh
    chịu. Bên cạnh các điều kiện cơ
    bản này, pháp luật một số nước còn
    quy định thêm các điều kiện khác
    nhau để xác định hoàn cảnh viện
    dẫn điều khoản hardship.
    Tóm lại, những trường hợp rơi
    vào khả năng áp dụng điều khoản
    về khó khăn trở ngại phải được
    các bên thỏa thuận trước và ghi
    vào hợp đồng thì khi trường hợp
    đó xảy ra biên bị thiệt hại mới có
    thể viện dẫn điều khoản này để yêu
    cầu đàm phán lại hợp đồng hoặc
    chấm dứt hợp đồng. Vì vậy, các
    bên cần thỏa thuận chi tiết những
    nội dung có liên quan trong hợp
    đồng. Kinh nghiệm thực tiễn của
    hoạt động thương mại quốc tế cho
    thấy để tránh nguy cơ các bên lạm
    dụng điều khoản hardship, các
    chủ thể thường viện dẫn các điều
    khoản mẫu vào hợp đồng dưới
    hình thức một điều khoản đặc biệt
    của hợp đồng.Ví dụ: Điều khoản
    mẫu về “khó khăn trở ngại” của
    Bộ nguyên tắc của UNIDROIT
    về hợp đồng thương mại quốc tế
    năm 2004 (Điều 6.2.1, Điều 6.2.2

  6. Số 9 (19)

    – Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    69
    và Điều 6.2.3) là một phần của hợp
    đồng này. Khi các điều kiện của
    điều khoản mẫu xảy ra trên thực tế
    các bên có thể viện dẫn điều khoản
    hardship để giải quyết các vấn đề
    phát sinh từ hợp đồng.
    2.3 Điều khoản về luật áp dụng
    Được hiểu là điều khoản về luật
    áp dụng điều chỉnh các vấn đề có
    liên quan đến hợp đồng. Xuất phát
    từ đặc điểm yếu tố nước ngoài nên
    trên thực tế có nhiều hệ thống pháp
    luậtcóliênquanđềucóthểápdụng
    cho HĐTMQT và việc xác định
    một hệ thống pháp luật trong số các
    hệ thống pháp luật đó là một trong
    những vấn đề cơ bản khi giải quyết
    các vấn đề phát sinh từ hợp đồng.
    Vì vậy, trong HĐTMQT các bên
    cần thỏa thuận cụ thể luật của nước
    nào áp dụng điều chỉnh hợp đồng
    hoặc thỏa thuận luật của nước nào
    sẽ được sử dụng để xác định luật áp
    dụng cho hợp đồng. Kinh nghiệm
    lập pháp quốc tế cho thấy có nhiều
    nguyên tắc xác định luật áp dụng
    cho HĐTMQT trong đó một trong
    những nguyên tắc được ghi nhận
    rộng rãi nhất là quyền thỏa thuận
    lựa chọn luật áp dụng của các bên
    chủ thể hợp đồng. Đến thời điểm
    hiện tại đã có nhiều điều ước quốc
    tế có quy định về quyền thỏa thuận
    chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
    Cụ thể: Công ước La Haye ngày
    15 /6/1955 về Luật áp dụng đối với
    mua bán hàng hóa quốc tế, Công
    ước La Haye ngày 14/3/1978 về
    Luật áp dụng cho chi nhánh, văn
    phòng đại diện, Công ước La Haye
    ngày 22/12/1986 về Luật áp dụng
    cho hợp đồng mua bán hàng hóa
    quốc tế. Các Công ước này được
    ban hành trong khuôn khổ của Hội
    nghị La Haye vềTư pháp quốc tế10
    ;
    10
    Xem Roy Goode, Herbert Kronke,
    Ewan McKendrick, Jeffrey Wool (2007) –
    Transnational Commercial Law – Oxford
    University Press, (tiểu mục 2.30), tr.72.
    Công ước La Haye năm 1964 về
    Luật thống nhất về Mua bán hàng
    hóa quốc tế; Công ước La Haye
    năm 1964 về Luật thống nhất về
    Ký kết hợp đồng mua bán hàng
    hóa quốc tế (Cả hai công ước này
    được ban hảnh bởi Viện quốc tế về
    nhất thể hóa luật tư – UNIDROIT);
    Đặc biệt là Công ước Rome năm
    1980 về Luật áp dụng cho nghĩa
    vụ hợp đồng (Convention on the
    Law Applicable to the Contractual
    Obligation 1980, gọi tắt là “Rome
    Convention”) và Quy tắc Rome
    I năm 2008 về Luật áp dụng cho
    nghĩa vụ hợp đồng (Regulation
    (Ec) No 593/2008 Of The
    European Parliament And Of The
    Council Of 17 June 2008 On The
    Law Applicable To Contractual
    Obligations, gọi tắt là “Rome I
    Regulation”). Hai công ước này
    được ban hành trong khuôn khổ
    Liên minh châu Âu đã dành những
    quy định rất chi tiết về quyền thỏa
    thuận lựa chọn pháp luật áp dụng
    cho hợp đồng. Nguyên tắc quyền
    thỏa thuận chọn luật áp dụng cho
    HĐTMQT cũng được quy định
    trong nhiều văn bản pháp luật
    VN hiện hành. Khoản 1 Điều 769
    Bộ Luật dân sự 2005 quy định:
    “Quyền và nghĩa vụ của các bên
    theo hợp đồng dân sự được xác
    định theo pháp luật của nước nơi
    thực hiện hợp đồng, nếu không có
    thỏa thuận khác” và đoạn 2 khoản
    3 Điều 759 Bộ luật dân sự còn quy
    định: “Pháp luật nước ngoài cũng
    được áp dụng trong trường hợp các
    bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
    nếu sự thỏa thuận đó không trái với
    quy định của Bộ Luật này và các
    văn bản pháp luật khác của Cộng
    hòa xã hội chủ nghĩa VN”. Khoản
    2 Điều 5 Luật Thương mại 2005,
    khoản 2 Điều 4 Bộ Luật hàng hải
    năm 2005, khoản 4 Điều 5 Luật
    Đầu tư năm 2005, khoản 2 Điều
    14 Luật Trọng tài thương mại năm
    2010 cũng quy định tương tự.
    Tuynhiên,cácđiềukiệnđểthỏa
    thuận chọn luật hợp pháp được quy
    định trong pháp luật các nước khác
    nhaunênđểđảmbảohệthốngpháp
    luật đã được các bên chọn lựa sẽ áp
    dụng điều chỉnh trong điều khoản
    về luật áp dụng các bên cần thỏa
    thuận cụ thể các nội dung sau đây:
    – Phạm vi những vấn đề mà luật
    do các bên tham gia quan hệ hợp
    đồng lựa chọn điều chỉnh. Nói cách
    khác đây là phạm vi giới hạn của
    quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp
    dụng do pháp luật ấn định.
    – Những điều kiện cụ thể để hệ
    thống pháp luật đã được lựa chọn
    sẽ áp dụng cho các vấn đề phát
    sinh từ hợp đồng. Nói cách khác,
    khi các bên thỏa thuận lựa chọn
    luật áp dụng cho những vấn đề của
    hợp đồng được phép thỏa thuận lựa
    chọn luật áp dụng thì sự lựa chọn
    này cũng phải đáp ứng những điều
    kiện cụ thể do chính hệ thống pháp
    luật đó đặt ra.
    – Nguyên tắc xác định luật điều
    chỉnh trong trường hợp luật đã
    được lựa chọn không hợp pháp
    theo quy định của pháp luật nước
    có cơ quan có thẩm quyền giải
    quyết tranh chấp.
    – Cơ quan có thẩm quyền giải
    quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
    đồng. Về nguyên tắc, cơ quan có
    thẩm quyền giải quyết tranh chấp
    sẽ phải tuân thủ một số quy định
    bắtbuộctrongphápluậtnướcmình
    như hình thức hợp đồng, năng lực
    chủ thể ký kết hợp đồng, …
    Tóm lại, điều khoản về luật áp
    dụng cho HĐTMQT là điều khoản
    có ý nghĩa quyết định sau cùng khi
    các điều khoản về những trường
    hợp bất khả kháng và điều khoản

  7. PHÁT TRIỂN &

    HỘI NHẬP Số 9 (19) – Tháng 03-04/2013
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    70
    khó khăn trở ngại (điều khoản
    hardship) không thể áp dụng được
    để giải quyết các tranh chấp phát
    sinh từ hợp đồng. Việc xây dựng
    và đưa vào nội dung hợp đồng điều
    khoản luật áp dụng sẽ tạo điều kiện
    thuận lợi các bên chủ thể hợp đồng
    giải quyết các tranh chấp trong quá
    trình thực hiện hợp đồng mà không
    cần phải tìm hiểu xem hệ thống
    pháp luật nào sẽ được áp dụng để
    xác định các nội dung tranh chấp.
    3. Thực tiễn áp dụng các
    điều khoản đặc biệt để giải
    quyết tranh chấp phát sinh từ
    HĐTMQT
    3.1 Áp dụng điều khoản về những
    trường hợp bất khả kháng
    Ngày 20/9/1995, nguyên đơn
    A ký hợp đồng mua của bị đơn B
    20.000tấnhàngX(ngày29/9/1995
    Ađã ký hợp đồng bán lại lô hàng X
    cho người thứ ba khác), giao hàng
    tháng 12/1995, thanh toán bằng
    L/C không hủy ngang, thanh toán
    ngay.L/Cphảiđượcmởtrướcngày
    30/9/1995 (trên thực tế nguyên đơn
    đã mở L/C vào ngày 25/9/1995 cho
    bị đơn hưởng lợi). Tại Điều 14 của
    hợp đồng các bên thỏa thuận: “Nếu
    bất kỳ bên nào không thực hiện
    hoặc thực hiện không đúng nghĩa
    vụ hợp đồng vì các trường hợp bất
    khả kháng như: bão, động đất, lũ
    lụt, hỏa hoạn, núi lửa phun trào,
    chiến tranh, đình công, bạo động
    của quần chúng, lệnh cấm của
    Chính phủ, nhà máy sản xuất đóng
    cửa thì được miễn trách nhiệm”.
    Đến hạn giao hàng nguyên đơn A
    đã nhiều lần gọi điện thoại nhắc
    bên B và bên B cũng đã cam kết
    giao hàng cho bên A nhưng vẫn
    không giao hàng như đã thỏa thuận
    trong hợp đồng.
    Ngày 20/12/1995 bên A nhận
    được một “Giấy chứng nhận bất
    khả kháng” từ bên B đối với Hợp
    đồng số 02/95 (là hợp đồng giữa
    bên B ký với bên thứ ba cung cấp
    hànghóachoBkýngày04/7/1995).
    Ngày 20/6/1996 bên A nhận tiếp
    bản photo “Giấy chứng nhận
    bất khả kháng” thứ hai đề ngày
    21/01/1996 của bên B gửi. Sau đó
    bên B gửi tiếp cho bênAbản photo
    “Giấy chứng nhận bất khả kháng”
    thứ ba đề ngày 05/05/1996. Hai
    “Giấy chứng nhận bất khả kháng”
    thứ nhất và thứ hai do Tham tán
    thương mại của Đại sứ quán của
    nước người cung cấp hàng cho bên
    B (bị đơn) đóng trên lãnh thổ của
    bị đơn cấp. “Giấy chứng nhận bất
    khả kháng” thứ ba do Ủy ban xúc
    tiến thương mại quốc tế của nước
    người cung cấp hàng cho bên B (bị
    đơn) cấp. Trong cả ba giấy đều xác
    nhận “ở nước người cung cấp hàng
    hóa cho bị đơn bị mưa lớn và xảy
    ra lũ lụt, đường xá bị sụt lún, hư
    hỏng nặng, không chở nguyên vật
    liệu vào nhà máy được và nhà máy
    cũng bị hư hỏng nặng phải ngừng
    sản xuất. Trường hợp này được coi
    là bất khả kháng. Nhà máy đang cố
    gắng khắc phục hậu quả để hoạt
    động trở lại và sẽ có thông báo về
    lịch giao hàng cụ thể sau”. Do việc
    bên B không giao hàng đúng theo
    thỏa thuận trọng hợp đồng nên bên
    A (bên mua hàng của B) đã khởi
    kiện B ra trước Trọng tài thương
    mại yêu cầu bồi thường thiệt hại
    theo thỏa thuận trong nội dung
    hợpđồng đã ký kết11
    .
    Về vụ việc này chúng ta thấy
    cần xác định vấn đề sau đây12
    :
    11
    50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc,
    Trung tâm Trọng tài quốc tế VN (VIAC) bên
    cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp VN
    (VCCI), Hà Nội, 2002.
    12
    Về nhận định đối với vụ việc này xin xem
    thêm: Nguyễn Ngọc Lâm, Giải quyết tranh
    chấp hợp đồng thương mại quốc tế, nhận
    dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và
    phương pháp giải quyết, NXB Chính trị
    Mưa lớn, lũ lụt xảy ra làm nhà máy
    ngừng sản xuất và bị đơn có “Giấy
    chứng nhận bất khả kháng” của cơ
    quan có thẩm quyền cấp có được
    xem là trường hợp bất khả kháng
    để miễn trừ trách nhiệm bồi thường
    thiệt hai cho bị đơn theo hợp đồng
    đã ký kết hay không? Căn cứ theo
    quy định của pháp luật và tình tiết
    thực tế của vụ việc Hội đồng trọng
    tài nhận định:
    Thứ nhất, mưa lớn, lũ lụt xảy
    ra làm nhà máy ngừng sản xuất
    ở nước thứ ba (nước người cung
    cấp hàng hóa cho bên B là bị đơn)
    có thể là sự kiện bất khả kháng
    để miễn trách nhiệm giao hàng
    nhưng đấy là một hợp đồng khác,
    trong một quan hệ khác. Nó không
    thuộc phạm vi để xem xét là sự
    kiện bất khả kháng theo hợp đồng
    giữa bị đơn và nguyên đơn trong
    vụ kiện này vì trong hợp đồng giữa
    bị đơn và nguyên đơn không quy
    định vấn đề này. Theo các thỏa
    thuận tại Điều 14 của hợp đồng về
    các trường hợp bất khả kháng thì
    không có nội dung nào được đề
    cập liên quan đến bên thứ ba trong
    hợp đồng, trong đó có sự kiện bất
    khả kháng.
    Thứhai,bịđơncó“Giấychứng
    nhậnbấtkhảkháng”củacơquancó
    thẩm quyền cấp nhưng giấy chứng
    nhậnnàychỉcógiátrịđểmiễntrách
    nhiệm của bên thứ ba (là bên cung
    cấp hàng hóa cho bị đơn) trong hợp
    đồng với bị đơn chứ không phải là
    một căn cứ pháp lý để xem xét việc
    miễn trách nhiệm trong vụ kiện
    giữa bị đơn với nguyên đơn (bên
    A). Giả sử các “Giấy chứng nhận
    bất khả kháng” kể trên có liên quan
    đến vụ tranh chấp giữa nguyên đơn
    và bị đơn trong vụ kiện thì các giấy
    chứng nhận này cũng không có giá
    trị pháp lý bởi lẽ: (1) Lũ lụt xảy ra
    quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 177 – tr. 179.

  8. Số 9 (19)

    – Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    71
    ở nước người cung cấp hàng vào
    tháng 8/1995 (trước thời điểm ký
    hợp đồng). Như vậy, lũ lụt trong
    trường hợp này không phải là sự
    kiện mà “các bên trong hợp đồng
    không thể lường trước được” mà
    nó là sự kiện “đương nhiên thấy
    được”; và (2) Lũ lụt xảy ra vào
    tháng 8/1995 nhưng hai “Giấy
    chứng nhận bất khả kháng” thứ hai
    và thứ ba lại đề ngày 21/01/1996
    và 05/5/1996 là không đáng tin cậy
    vì thời gian cấp diễn ra sau sự kiện
    tương đối lâu.
    Từ các nhận định trên Hội đồng
    trọng tài kết luận các điều kiện của
    điều khoản về trường hợp bất khả
    kháng không thỏa mãn nên bên B
    không được viện dẫn điều khoản
    này để thoát khỏi nghĩa vụ giao
    hàng hoặc bồi thường thiệt hại
    xuất phát từ thỏa thuận của các bên
    trong hợp đồng.
    Như vậy, qua vụ việc thực tiễn
    này chúng ta thấy bên nguyên đơn
    (là bên mua hàng) đã bảo vệ được
    lợi ích hợp pháp của mình nhờ đưa
    vào nội dung hợp đồng điều khoản
    vềtrườnghợpbấtkhảkhángvàbên
    bị đơn đã không thể vận dụng được
    điều khoản này để thoát khỏi nghĩa
    vụ của hợp đồng do đã không thể
    chứng minh được có sự kiện bất
    khả kháng xảy ra liên quan đến
    việc thực hiện hợp đồng.
    3.2 Áp dụng điều khoản khó khăn
    trở ngại (điều khoản hardship)
    Ngày 20/8/1987, nguyên đơn
    A (trụ sở chính tại Ai Cập) ký hợp
    đồng với bị đơn B (trụ sở chính tại
    Nam Tư) mua của bị đơn thép xây
    dựng với giá 190 USD/tấn. Trong
    hợp đồng các bên thỏa thuậnA“có
    quyền mua đặc biệt”, quyền này
    cho phép người mua tăng số lượng
    hàng mua lên gấp đôi với giá cả
    và điều kiện không thay đổi. Điều
    kiện của quyền mua đặc biệt này là
    Aphảituyênbốquyềnmuađặcbiệt
    trước ngày 15/12/1987. Tuy nhiên,
    trong hợp đồng các bên đã không
    thỏa thuận về luật áp dụng cho hợp
    đồng và cơ quan tài phán có thẩm
    quyền giải quyết tranh chấp. Ngày
    26/11/1987 A đã thông báo cho B
    rằng họ sẽ thực hiện quyền mua
    đặc biệt này và sẽ mở L/C trong
    khoảng thời gian từ ngày 15 đến
    ngày 30/11/1987. Tuy nhiên, sau
    đó giá thép trên thị trường tăng cao
    (tăng lên 225 USD/tấn) nên ngày
    09/12/1987 bên B đề nghị tổ chức
    một cuộc họp để thảo luận về mức
    giá áp dụng cho số lượng hàng
    mua thêm trong điều khoản quyền
    mua đặc biệt tại cuộc họp bên B đề
    nghị mức giá áp dụng cho số lượng
    hàng mua thêm là 225 USD/tấn,
    song bên mua A không chấp nhận
    và yêu cầu giữ nguyên mức giá
    đã thỏa thuận trong hợp đồng. B
    không chấp nhận nên không thực
    hiện hợp đồng là không giao tiếp
    số thép mua thêm. Bên A đã khởi
    kiện B ra Trọng tài ICC tại Paris
    yêu cầu giải quyết tranh chấp, bồi
    thường thiệt hại cho bênA13
    .
    Về vụ việc này chúng ta thấy có
    13
    50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc,
    Trung tâm Trọng tài quốc tế VN (VIAC) bên
    cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp VN
    (VCCI), Hà Nội, 2002.
    một số vấn đề sau đây14
    :
    Thứ nhất, trong hợp đồng các
    bên không thỏa thuận về luật áp
    dụng và cơ quan giải quyết tranh
    chấpnênbênAkiệnbênBraTrọng
    tài ICC tại Paris và bên B không
    phản đối nên Trọng tài ICC tại
    Paris có thẩm quyền giải quyết vụ
    việc. Trong trường hợp này Trọng
    tài ICC tại Paris sẽ áp dụng các
    nguyên tắc tố tụng của mình để xác
    định luật áp dụng. Theo Nguyên
    tắc Lex arbitri (Luật nơi tiến hành
    trọng tài nghĩa là pháp luật của
    Pháp) thì pháp luật áp dụng cho
    hợp đồng là Luật của nước nơi bên
    bán có trụ sở, nghĩa là pháp luật
    của Nam Tư sẽ được áp dụng.
    Thứ hai, về sự kiện giá thép
    tăng cao trên thị trường có được
    xem là khó khăn trở ngại để áp
    dụng điều khoản hardship không?
    Hội đồng trọng tài giải quyết vụ
    việc đã áp dụng Điều 133 Luật về
    nghĩavụcủaNamTưthì:(1)Trong
    trường hợp có biến cố xảy ra sau
    khi ký kết hợp đồng làm cho việc
    thực hiện hợp đồng của một trong
    các bên gặp khó khăn hoặc mục
    đích của hợp đồng không thể đạt
    14
    Về nhận định đối với vụ việc này xin xem
    thêm: Nguyễn Ngọc Lâm, Giải quyết tranh
    chấp hợp đồng thương mại quốc tế, nhận
    dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và
    phương pháp giải quyết, NXB Chính trị
    quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 182 – tr. 183.

  9. PHÁT TRIỂN &

    HỘI NHẬP Số 9 (19) – Tháng 03-04/2013
    Nghiên Cứu & Trao Đổi
    72
    được và hợp đồng không còn đáp
    ứng được mong muốn của các bên
    cũng như việc tiếp tục giữ nguyên
    hợp đồng sẽ là không công bằng
    thì bên gặp khó khăn trong việc
    thực hiện hợp đồng hoặc không đạt
    được mục đích của hợp đồng do
    có thay đổi hoàn cảnh có thể yêu
    cầu hủy hợp đồng; và (2) Không
    thể yêu cầu hủy hợp đồng nếu bên
    viện dẫn biến cố đã lường trước
    được biến cố này tại thời điểm ký
    kết hợp đồng hoặc đã có thể vượt
    qua hoặc khắc phục nó.
    Vận dụng quy định pháp luật
    này chúng ta thấy có hai vấn đề
    cần phải xác định: (1) Việc giá thép
    tăng từ 190 USD/tấn lên 225 USD/
    tấn có phải là sự tăng đột biến về
    giá hay không? và (2) Bên B có
    khả năng dự đoán trước được tình
    huống tăng giá này hay không?
    Hội đồng trọng tài đã cho rằng giá
    cả hàng hóa trên thị trường luôn
    có khả năng biến động, điều này
    là hiện tượng thông thường trong
    hoạt động kinh doanh và các bên
    phải xử lý thường xuyên như là
    một hoạt đồng bình thường. Bị
    đơn là một thương nhân nên đây
    không phải là trường hợp ngoại lệ
    và vì thế bị đơn hoàn toàn có thể
    và phải dự đoán trước sự kiện tăng
    giá này. Như vậy, vấn đề còn lại
    cần xem xét là việc giá thép tăng
    từ 190 USD/tấn lên 225 USD/tấn,
    tương đương 13,6% có phải là sự
    tăng đột biến về giá cả hay không.
    Theo đánh giá chung của nhiều
    thương nhân kinh doanh trong lĩnh
    vực thép thì mức tăng 13,6% theo
    thỏa thuận trong hợp đồng là mức
    tăng nằm trong phạm vi rủi ro về
    giá cả theo thông lệ thương mại và
    hoàn toàn nằm trong dự liệu của
    các bên. Do vậy, trong trường hợp
    này mặc dù trên thực tế có sự tăng
    giá thép nhưng bên bị bất lợi (bên
    bán tức bên B là bị đơn) đã có thể
    tính đến sự kiện này ngay khi các
    bên ký kết hợp đồng và thỏa thuận
    về điều khoản quyền mua đặc biệt.
    Vì vậy, Hội đồng trọng tài kết luận
    các điều kiện của điều khoản khó
    khăn trở ngại không thỏa mãn nên
    bên B không được viện dẫn điều
    khoản này để đề nghị đàm phán lại
    hợp đồng.
    Như vậy, trong vụ việc này bên
    bị đơn đã không thể viện dẫn được
    điều khoản khó khăn trở ngại để
    đề nghị đàm phán lại hợp đồng do
    không chứng minh được các điều
    kiện viện dẫn đã thỏa mãn. Một
    trong những nguyên nhân chính
    dẫn đết việc thua kiện của bên bị
    đơn là do bên bị đơn đã không xây
    dựng cụ thể các điều kiện áp dụng
    điều khoản khó khăn trở ngại cũng
    như không thỏa thuận điều khoản
    về luật áp dụng và cơ quan giải
    quyết tranh chấp trong hợp đồng
    nên khi vụ kiện xảy ra các bên phải
    chấp nhận luật áp dụng do cơ quan
    tài phán có thẩm quyền giải quyết
    xác địnhl
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Bộ Luật tố tụng dân sự VN năm 2004 (sửa
    đổi, bổ sung năm 2011).
    Bộ Luật dân sự VN năm 2005.
    Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng
    thương mại quốc tế 2004, NXB Tư pháp,
    Hà Nội, 2005.
    Nhà pháp luật Việt – Pháp, Các thuật ngữ
    hợp đồng thông dụng, NXB Từ điển
    Bách Khoa, Hà Nội, 2011.
    Luật thương mại VN 2005.
    Nguyễn Ngọc Lâm, Giải quyết tranh chấp
    hợp đồng thương mại quốc tế, nhận
    dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa
    và phương pháp giải quyết, NXB Chính
    trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
    Coronne Renault – Brahinsky, Đại cương về
    pháp luật hợp đồng, Dịch giả: Trần Đức
    Sơn (Bản dịch tiếng Việt của Nhà pháp
    luật Việt – Pháp), NXB Văn hóa thông
    tin, Hà Nội, 2002.
    Jean – Marc Favret, Những vấn đề cơ bản
    về Liên minh châu Âu và pháp luật cộng
    đồng châu Âu (Nhà pháp luật Việt –
    Pháp), NXB Văn hóa – Thông tin, Hà
    Nội, 2002.
    Tuyển tập một số văn bản về Trọng tài và hòa
    giải thương mại, Bản dịch tiếng Việt của
    Nhà pháp luật Việt – Pháp, NXB Từ điển
    bách khoa, Hà Nội, 2010.
    50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc,
    Trung tâm Trọng tài quốc tế VN (VIAC)
    bên cạnh Phòng Thương mại và Công
    nghiệp VN (VCCI), Hà Nội, 2002.
    Trung tâm thương mại quốc tế, Trọng tài và
    các phương thức giải quyết tranh chấp
    lựa chọn – Giải quyết các tranh chấp
    thương mại như thế nào (Trung tâm
    Trọng tài quốc tế VN giữ bản quyền).
    Convention Of 19 June 1980 On The Law
    Applicable To Contractual Obligations
    (Công ước Rome ngày 19/6/1980 về xác
    định luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
    đồng).
    Convention of 1980 on Contract for the
    International sale of Good – CISG (Công
    ước năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về
    hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
    Regulation (Ec) No 593/2008 Of The
    European Parliament And Of The
    Council Of 17 June 2008 On The Law
    Applicable To Contractual Obligations –
    Rome I Regulation (Quy tắc Rome năm
    2008 về Luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp
    đồng – Quy tắc Rome I).
    The Principles Of European Contract Law –
    Pecl (Bộ nguyên tắc pháp luật hợp đồng
    của châu Âu, phần I, II đã sửa đổi năm
    1998, phần III đã sửa đổi năm 2002).
    Bộ Luật châu Âu về hợp đồng (Dự luật
    PAVIE được soạn thảo bởi Viện các Luật
    gia tư pháp Pavie).
    Roy Goode, Herbert Kronke, Ewan
    McKendrick, Jeffrey Wool,
    Transnational Commercial Law, Oxford
    University Press, 2007.
    Bradford Stone, Uniform Commercial Code,
    West Publishing Co, 1989.
    Jeff Ferrill, Understanding Contracts
    (Second edition), Lexis Nexis Group,
    2009.
    H. Collins, The Law of Contract (Fourth
    edition), Lexis Nexis, 2003.