Top 4 bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất – Ngữ văn lớp 11 – Trường THPT Hòa Minh
Đề bài: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Bài giảng: Vội vàng – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên )
Có lẽ danh hiệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” mà nhà phê bình Hoài Thanh đã dành cho Xuân Diệu sẽ không thể thay thế được. Xuân Diệu đã thực sự mang đến cho thơ thời ấy, những năm 30 của thế kỷ XX, một cái gì đó rất mới. Từ nguồn sống dồi dào hay quan niệm sống, quan niệm tình yêu, tuổi trẻ… đến các loại hình nghệ thuật đều hiện đại và có những cách tân mạnh mẽ, táo bạo. Sự ghi nhận đó không chỉ ở một bài thơ mà ở cả một tập thơ, thậm chí nhiều tập thơ của ông được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong số đó, tập thơ đầu tay của ông được in thành sách. năm 1938, với bài thơ Vội vàng, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật cả đời Xuân Diệu.
Vội vàng ra đời năm 1938, khi phong trào thơ mới đang phát triển ở đỉnh cao. Đây được coi là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, bởi nó không chỉ mang hơi thở mới mẻ, hiện đại mà còn thể hiện một cái tôi ý nghĩa, cao đẹp. “Vội vàng” không phải là trạng thái vội vàng, vội vàng. Bài thơ được làm theo thể thơ tự do, gồm một câu đề từ Tùng Vũ Đình Liên và bốn khổ thơ có dung lượng khác nhau. Tuy nhiên, người đọc nhận ra mạch cảm xúc chủ đạo là một cái tôi yêu đời nồng nàn, say đắm, cuồng nhiệt nhưng vẫn đầy sợ hãi trước dòng chảy tàn nhẫn, nghiệt ngã của thời gian. Bố cục bài thơ vì thế trở thành cuộc tranh luận sôi nổi của nhà thơ trước cuộc đời.
Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai.
Tôi muốn buộc gió
Để hương không bay đi.
Dễ dàng nhận thấy cấu tứ của bài thơ được đặt ngay ở bốn câu mở đầu của bài thơ. Xuân Diệu đã đuổi kịp Vội vàng với hai điều ước: tắt nắng, buộc gió. Đó là quy luật của tạo hóa, của tự nhiên mà con người chúng ta không thể can thiệp hay tước đoạt. Vậy mà điệp khúc tôi muốn…, tôi muốn… được lặp đi lặp lại hai lần, như thể đó là một khao khát mãnh liệt đến mức hoang dại, phi lý. Nhưng khi biết mục đích của nhân vật trữ tình, người đọc mới nhận ra rằng tắt nắng, buộc gió chính là để cho màu không phai, cho hương không bay. Đó chẳng phải là muốn thời gian ngừng trôi, muốn mọi thứ ngừng trôi để mình đắm chìm, mãi sống với hương sắc cuộc đời hay sao? Hóa ra bản ngã yêu cuộc sống này rất mãnh liệt, nhưng dường như nó cũng sợ nó vuột mất. Vì vậy, sáng tác của bài thơ từ đây được thúc đẩy bởi hai cảm xúc đó và cũng là lý do để “tuyên bố” về lẽ sống vội vàng.
Tôi muốn tắt nắng, buộc gió? Chắc hẳn cuộc đời này phải đẹp lắm thì nhà thơ mới muốn chấm dứt mọi thứ như thế. Chỉ cần sang khổ thơ thứ hai, chúng ta sẽ thấy lời giải thích cho điều đó. Thay đổi cảm xúc dồn nén ở bốn dòng đầu của bài thơ, khổ thơ thứ hai dài hơn với thể thơ tám chữ, giọng điệu có phần tha thiết, hào hứng:
Của con ong và con bướm này, đây là tháng mật ong
…
Em không đợi nắng hè mãi là xuân.
Thông điệp này vừa hiện đại, vừa như một lời mời gọi, vẫy gọi ta bước vào thế giới tươi đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. Bằng bút pháp liệt kê, ông dẫn người đọc vào thế giới những hình ảnh rất đỗi bình dị, gần gũi nhưng ẩn chứa những vẻ đẹp mà ta vô tình không nhận ra. Chẳng có gì xa lạ với những con ong bướm, cánh đồng hoa, lá lụa, tổ yến, ánh sáng, buổi sớm tháng Giêng, nhưng dưới con mắt “non xanh nước biếc”, qua lăng kính của tình yêu và cảm nhận. Bằng tất cả các giác quan, nhà thơ đã đem đến một khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống thật tuyệt vời. Những điều thân thuộc ấy ở trạng thái dịu dàng, tươi tắn, căng tràn sức sống và tình xuân nhất: ong bướm lả lơi, hoa đồng xanh, lá rung rinh, bản tình ca. si, mi chớp nhẹ, Tháng giêng ngon như đôi môi kề. Tình yêu cuộc sống nồng nàn, mãnh liệt đã khiến nhà thơ phát hiện ra một bữa tiệc giữa nhân gian, một thiên đường ngay trên mặt đất. Triết lý sống vì thế cũng được bộc lộ trong khám phá này. Không cần phải đi đâu xa, không cần phải đến những nơi có cảnh đẹp, không phải chỉ là nơi bạn có thể tận hưởng vẻ đẹp như vậy, chỉ cần căng mắt, căng tai, trải lòng, nếu bạn được sống hết lòng, hết trí, hết linh hồn, thì “thiên đường” ở ngay trước mắt. Khoảnh khắc mà mỗi chúng ta cần tận hưởng đó là mùa xuân của thiên nhiên, của tuổi trẻ, của tình yêu cuộc sống, xin đừng bỏ lỡ. Thế nên anh mới muốn “tắt nắng, buộc gió”!
Nhưng tôi không chỉ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà còn yêu con người. Và chính tình yêu thương con người ấy đã giúp nhà thơ nảy ra một quan điểm thẩm mĩ vô cùng độc đáo. Vốn dĩ thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì nay Xuân Diệu lại lấy con người làm thước đo của mọi cái đẹp. Qua phép so sánh: Đôi mi khẽ chớp/ Tháng giêng ngon như đôi môi kề, người đọc nhận ra sự khác biệt. Ánh sáng, một điều tự nhiên, giờ đây được ví như cái chớp mắt của một cô gái trẻ; Tháng giêng cũng “ngon lành” như đôi môi người tình gần gũi. Xuân Diệu đã thực sự sáng tạo ra một quan niệm đẹp nhưng đầy nhân văn, mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Phải chăng đối với nhà thơ, con người là điều kỳ diệu, là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa?
Thiên nhiên tươi đẹp, cuộc sống tươi đẹp, con người tươi đẹp… nhưng đời người không thể gắn bó mãi được. Chân nến:
Tôi đang hạnh phúc. Nhưng trong một nửa vội vàng,
Em không đợi nắng hè mãi là xuân.
Ừ, đời là thế, làm sao mà không vui cho được. Nhưng không thể “tắt nắng, buộc gió” mà mãi chìm đắm trong đó nên ta phải vội vàng. Câu thơ có dấu chấm giữa dòng ngắt mạnh cảm xúc, muốn níu kéo tất cả chỉ có thể vội vàng sống từng giây từng phút. Nhân vật trữ tình không chờ đợi mùa hè mà ngay cả mùa xuân anh cũng đã nhớ mùa xuân rồi. Để lại cả khổ thơ vẫn là tình yêu cuộc sống thật sục sôi, hừng hực. Đâu đó ta nhận ra ánh mắt hân hoan nhưng khẩn trương của thi nhân chạy đua với thời gian. Vì nếu không nhanh sẽ không kịp và không thể tận hưởng cuộc sống này.
Mùa xuân đang đến có nghĩa là mùa xuân đang đi qua
…
Chưa từng! Ồ không bao giờ nữa.
Khổ thơ mở ra một cuộc tranh luận rất độc đáo, thời gian có thực sự chảy, có thực sự tàn nhẫn cuốn trôi mọi thứ? Bằng nghệ thuật tương phản (xuân trẻ – xuân già, tới – đi, rộng – chật, tuần hoàn – không hai lần…) và hàng loạt từ ngữ gây nhiều tranh cãi như: nghĩa, mà, sao nói, nếu, nên, nhà thơ đã chỉ ra ra quy luật tuyến tính của thời gian: một đi không trở lại. Anh say sưa với giọng buồn, có phần run run. Không có chuyện thời gian như “lò bóng qua cửa sổ”, không có chuyện chết đi rồi tái sinh, nhưng thời gian thật tàn nhẫn và vô tình. Mỗi giây trôi qua là một mất mát. Có thể thời gian của tự nhiên là vô hạn, nhưng đời người là hữu hạn, và tuổi trẻ lại càng ngắn hơn, ít hơn vô cùng. Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu không cảm tính, không thơ mộng mà đầy tính khách quan, biện chứng. Chỉ có thể là một tâm hồn quá nhạy cảm và yêu đời nên mới lo lắng và sợ hãi trước quy luật của thời gian. Do đó, nhìn đâu ông cũng thấy sự chia cắt và hủy diệt. Những hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống được nhân hóa: mùi tháng năm mang hương vị chia ly, núi sông thì thầm tiễn biệt, gió xinh thì thầm, hờn dỗi phải bay đi, chim ngần ngừng cất tiếng hót trước khi tàn. sắp là những điềm báo đầy mất mát, có phần bi thương trước dòng chảy của thời gian. Khắp nơi tràn ngập mùi, vị của sự tan rã, đứt gãy, chia ly. Vậy làm sao bạn không cảm thấy tiếc nuối, thất vọng và buồn bã cho được? Câu thơ vang lên như một nỗi buồn, một sự bế tắc: không bao giờ! Ồ không bao giờ nữa! Xuân Diệu thực tế là thế, đời thường là thế… nhưng cũng không tránh khỏi nỗi sợ hãi, sự bàng hoàng của thời cuộc. Vậy không “tắt nắng”, không “buộc gió” thì làm sao màu không nhạt, hương không bay? Chỉ còn cách hấp tấp để chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian.
Vội vàng quả là một bài thơ nhiều cảm xúc. Khổ thơ thứ nhất có chút dồn nén, khổ thơ thứ hai sôi nổi, cuồng nhiệt, khổ thơ thứ ba có bâng khuâng, bứt rứt, đến khổ thơ thứ tư sẽ sôi sục, sôi nổi, nhiệt huyết. Sự linh hoạt trong biểu đạt cảm xúc của bài thơ bắt nguồn từ triết lý sống vội. Không thể níu giữ thời gian, không thể đứng yên nhìn thời gian hủy hoại tất cả, chỉ có sự vội vàng. Vì vậy, khổ thơ cuối mở đầu bằng một lời khuyên vội vàng:
Muốn đi! Mùa giải vẫn chưa kết thúc.
…
– Hỡi suối đỏ, ta muốn cắn ngươi.
Đi là để sống, mà đi vội là sống vội, vội đi khi mùa chưa sang, khi mọi thứ còn tươi đẹp và trẻ trung nhất. Xuân Diệu đã thúc giục mọi người như thế. Bây giờ không còn là tôi muốn, là nguyện vọng của một cá nhân, mà là chúng ta muốn, đó là của mọi người. Chúng ta muốn ôm, siết, say sưa, sưu tầm, thậm chí cắn cho đến choáng váng, no nê, đủ đầy mọi thứ của cuộc đời này. Một loạt động từ mạnh được sắp xếp theo thứ tự tăng dần vừa diễn tả lối sống, vừa diễn tả những cảm xúc có phần mất kiểm soát của nhân vật trữ tình. Xuân Diệu mang đến một lối sống vội vã, sôi nổi, hấp tấp và hết mình. Nhưng nhà thơ cũng không cho rằng chúng ta cứ phải luôn căng thẳng để sống như vậy mà cần phải biết sống nhanh đúng lúc. Đó là khi sự sống mới bắt đầu chớm nở, khi mây gió chập chờn, cánh bướm tình tứ, bao nụ hôn, non nước cỏ cây… và đặc biệt là mùa xuân hồng. Nhà thơ chọn những khoảnh khắc mà mỗi chúng ta đáng sống nhất, sống hết mình, say đắm nhất để không bỏ lỡ một chút vẻ đẹp nào của cuộc đời. Hình ảnh xuân hồng là biểu tượng của sự sống, đến nỗi nhà thơ không ngần ngại dùng những từ ngữ có phần thô thiển để diễn tả sự cắn rứt. Nhưng ai cũng hiểu, với sự tham lam, say mê cuộc sống của Xuân Diệu, thì kể cả những từ ngữ đó cũng không đủ để diễn tả cảm xúc yêu đời của ông.
Vội vàng khép lại bằng một hình ảnh, nhân vật trữ tình đang muốn thỏa mãn với cảm giác yêu đương của mình. Đó cũng là ấn tượng đặc biệt mà bài thơ để lại trong lòng người đọc. Tuy trong thơ vẫn còn một nỗi day dứt, khắc khoải về thời gian trôi qua nhưng người ta không thấy rằng bài thơ dừng lại với một khung cảnh bi quan, chán nản. Ngược lại, niềm vui gieo trong khổ thơ cuối cho thấy Xuân Diệu vẫn yêu đời, trân trọng cuộc sống và lạc quan trước những phút giây của thực tại. Vì thế, Vội vàng ra đời khi ấy, nỗi trăn trở về cuộc đời trong thơ còn nhiều nhưng ý thơ về quan niệm sống, quan niệm sống, tuổi trẻ, tình yêu và nhiệt huyết. tâm huyết, hết lòng với đời vẫn vẹn nguyên giá trị muôn đời sau.
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
voi-vang.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác
Bạn thấy bài viết Top 4 bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất – Ngữ văn lớp 11 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Top 4 bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất – Ngữ văn lớp 11 bên dưới để Trường THPT Hòa Minh có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thpthoaminh.edu.vn của Trường THPT Hòa Minh
Nhớ để nguồn bài viết này: Top 4 bài Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất – Ngữ văn lớp 11 của website thpthoaminh.edu.vn
Chuyên mục: Văn học