Tổng quan về lý thuyết Cấu trúc – Chức năng: GS.TS Lê Ngọc Hùng
Tổng quan về lý thuyết cấu trúc – chức năng
GS.TS Lê Ngọc Hùng
Trong
lĩnh vực xã hội học học, thuyết cấu trúc và thuyết chức năng với các biến thể
của chúng đã tạo thành thuyết cấu trúc – chức năng tập hợp nhiều tác giả khác
nhau tham gia nghiên cứu, xây dựng. Trong số đó nổi bật nhất là Talcott Parsons
(1902-1979), Robert Merton (1910-2003) và Peter Blau (1918-2002).
Nhìn chung, Parsons sử dụng khái niệm cấu trúc và khái
niệm hệ thống gần như tương đương nhau với nghĩa là hệ thống có cấu trúc và cả
hai đều có chung những thành phần nhất định mà mỗi thành phần này có những chức
năng nhất đinh đối với cả hệ thống[1].
Khái niệm cấu trúc nhấn mạnh các yếu tố tạo thành khuôn mẫu, định hình hệ thống
một cách tương đối ổn định. Khái niệm hệ thống nhấn mạnh một tập hợp các yếu tố
được sắp xếp theo trật tự nhất định, nghĩa là được định hình vừa độc lập vừa
liên tục trao đổi qua lại với hệ thống môi trường xung quanh. Thuyết cấu trúc –
chức năng nhấn mạnh mối quan hệ chức năng giữa các thành phần với cả tổng thể.
Về mặt
lý thuyết, với tư cách là một tập hợp logic các khái niệm[2],
Parsons xem xét hệ thống trong một không gian ít nhất có ba chiều như sau:
Theo
Parsons, xã hội là một kiểu hay loại
hệ thống xã hội đáp ứng được tất cả các đòi hỏi chức năng cơ bản của một sự tồn
tại lâu bền từ các nguồn lực bên trong của nó[4]. Hệ thống xã hội là hệ thống của các quá
trình tương tác giữa các tác nhân (actors). Cấu trúc của hệ thống xã hội về cơ
bản là cấu trúc của các mối liên hệ giữa các tác nhân tham gia vào quá trình
tương tác[5].
Chức năng là vai trò, nhiệm vụ mà mỗi một thành phần của hệ thống xã hội phải
thực hiện để đảm bảo cho cả hệ thống xã hội tồn tại, vận động và phát triển một
cách phù hợp với môi trường xung quanh.
Đơn vị của hệ thống xã hội
Parsons
phân biệt bốn đơn vị của hệ thống xã hội như sau[6]:
Tương
ứng với bốn loại đơn vị hệ thống xã hội là bốn loại cấu trúc xã hội: cấu trúc
của các động tác xã hội, cấu trúc của các vị thế-vai trò, cấu trúc của các tác
nhân hành động và cấu trúc của tập thể.
Parsons
nổi tiếng trong giới xã hội học về sơ đồ lý thuyết hệ thống xã hội viết tắt là
AGIL theo bốn chữ cái của bốn tiểu hệ thống. Theo Parsons, hệ thống xã hội được
cấu thành từ bốn tiểu hệ thống (hệ thống nhỏ hơn), tương ứng với bốn loại nhu
cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội. Bốn loại
yêu cầu chức năng của xã hội là:
Từ đó, trong xã hội học hiện đại đã xuất hiện sơ đồ
nổi tiếng của Parsons về hệ thống xã hội viết tắt là sơ đồ AGIL, còn được gọi
là sơ đồ hệ thống “bốn chức năng”[7].
Trong hệ thống xã hội, tiểu hệ thống (A) có chức năng
cung cấp các phương tiện, nguồn lực và năng lượng để thực hiện các mục đích đã
xác định. Trong hệ thống xã hội, đây chính là tiểu hệ thống kinh tế. Nền kinh
tế, các doanh nghiệp và các quá trình kinh tế được tổ chức để thực hiện chức
năng thích ứng của xã hội đối với môi trường khan hiếm các nguồn lực và đang
biến đổi không ngừng.
Tiểu hệ thống hướng đích (G) đóng vai trò xác định các
mục tiêu và định hướng cho toàn bộ hệ thống vào việc thực hiện mục đích đã xác
định. Tiểu hệ thống hướng đích trong xã hội chính là hệ thống chính trị với các
tổ chức đảng phái và các cơ quan chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương cùng nhiều đơn vị và cơ quan quyền lực khác.
Tiểu hệ thống liên kết (I) thực hiện chức năng gắn kết
các cá nhân, các nhóm và tổ chức xã hội, đồng thời kiểm soát xã hội thông qua
giám sát, kiểm tra, điều chỉnh, trừng phạt để giải quyết các quan hệ mâu thuẫn,
xung đột nhằm tạo nên sự ổn định, sự đoàn kết và trật tự xã hội. Tiểu hệ thống
liên kết gồm có các cơ quan pháp luật, cơ quan hành chính và bộ máy an ninh xã
hội.
Để tồn tại một cách ổn định và trật tự, mỗi xã hội cần
phải có tiểu hệ thống bảo tồn (L) thực hiện chức năng kích thích, động viên các
cá nhân và nhóm xã hội, đồng thời đảm nhiệm chức năng quản lý và bảo trì các
khuôn mẫu hành vi, ứng xử của các thành viên. Tiểu hệ thống L bao gồm gia đình,
nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật. Thông qua các cơ
chế xã hội hoá, hợp thức hoá và thiết chế hoá hệ các giá trị, chuẩn mực xã hội
có khả năng đáp ứng nhu cầu duy trì các kiểu hành động, các khuôn mẫu hành vi
để bảo đảm trật tự, ổn định, cân bằng và an toàn xã hội.
Các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều
khiển học. Hệ thống ở cấp độ cao hơn về thông tin nhưng yếu về năng lượng (ví
dụ hệ thống văn hoá – L) chi phối và kiểm soát hệ thống ở trình độ cao hơn về
năng lượng nhưng kém về thông tin (ví dụ hệ thống kinh tế – A).
Các tiểu hệ thống có mối quan hệ qua lại với nhau theo
nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Chẳng hạn, tiểu hệ
thống kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau và với các tiểu hệ thống khác của
xã hội để lấy nguồn “đầu vào” và cung
cấp “đầu ra” là sản phẩm, hàng hoá và
dịch vụ. Ví dụ, doanh nghiệp sử dụng lao động của công nhân có trình độ chuyên
môn và kỹ năng tay nghề do tiểu hệ thống giáo dục tạo ra và đổi lại, nó trả
công lao động cho công nhân để họ nuôi sống bản thân và gia đình.
Các tiểu hệ thống trao đổi với nhau thông qua một loạt
các phương tiện và công cụ xã hội, ví dụ, tài sản, tiền bạc, quyền lực, sự ảnh
hưởng, sự gắn bó và niềm tin. Mỗi một cặp tiểu hệ thống quan hệ trao đổi với
nhau thông qua một số loại phương tiện chuyên biệt. Phương tiện cơ bản của tiểu
hệ thống A là tiền, vốn; của tiểu hệ thống G là quyền lực; của tiểu hệ thống I
là sự ảnh hưởng; và của tiểu hệ thống L là sự cam kết về mặt giá trị[8].
Chẳng hạn, tiền công là phương tiện chính để trao đổi giữa tiểu hệ thống kinh
tế (A) và tiểu hệ thống duy trì khuôn mẫu (L). Vốn tư bản là phương tiện chính
trong quan hệ trao đổi giữa tiểu hệ thống kinh tế (A) và tiểu hệ thống hướng
đích (G). Cần chú ý là các chức năng và các tiểu hệ thống có thể tương ứng đan
xen, bù trừ với nhau rất phức tạp. Ví dụ, tiểu hệ thống chính trị trong tình
huống nhất định có thể đảm nhận cả nhiệm vụ làm kinh tế và những tổ chức kinh
tế độc quyền mạnh có thể lũng đoạn chính trị, pháp luật.
Lý thuyết về các hệ thống xã hội của Parsons được
trình bày dưới dạng sơ đồ khái niệm chủ yếu giúp ta phân tích và mô tả hành
động xã hội và trật tự của cấu trúc xã hội một cách tổng hợp, khái quát và hệ
thống[9].
Thuyết cấu trúc – chức năng được bổ sung và phát triển
nhờ những đóng góp lý luận quan trọng của Robert K. Merton (1910-2003). Một
đóng góp lớn của Merton đối với chủ thuyết này là việc phát hiện ra sự loạn
phản chức năng, còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng. Khác với Parsons
luôn coi mọi hệ quả của một thiết chế xã hội là chức năng với nghĩa là những
tác dụng tốt, có lợi cho toàn bộ cấu trúc xã hội, Merton chỉ ra những phản chức
năng của thiết chế xã hội. Phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí
gây rối loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Để nhận diện
sự loạn chức năng hay phản chức năng, cần trả lời câu hỏi: hệ quả của một hiện
tượng xã hội đem lại lợi ích hay gây tổn hại tới lợi ích của ai?
Cần thấy rằng hệ quả có thể là chức năng, tức là có
lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm
người kia. Ví dụ, bộ máy nhiệm sở có chức năng nâng cao tính hiệu quả của tổ
chức, nhưng có phản chức năng là tạo ra sự xơ cứng, máy móc trong hành vi của
các thành viên.
Một đóng góp quan trọng khác của Merton là việc phân
loại chức năng trội và chức năng lặn dựa vào mức độ biểu hiện
của chúng. Merton chỉ ra cách phân tích chức năng là phải vượt qua quan niệm
thông thường về mục đích, ý nghĩa mà các chủ thể gán cho sự vật, hiện tượng để
xác định chính xác, khách quan tác dụng của chúng. Khi tìm hiểu thiết chế và tổ
chức xã hội, cần chỉ ra đâu là hệ quả không chủ định, chưa thấy rõ, chưa biểu
hiện công khai và đâu là hệ quả chủ định, thấy rõ, công khai. Trên thực tế,
muốn hiểu cơ chế hoạt động, tồn tại và phát triển của một cấu trúc xã hội, ta
không nên vội vàng tin vào những lời tuyên bố công khai về mục đích, tác dụng
của nó; mà cần phải phân tích những tác động nhiều chiều của nó đối với các cấu
trúc xã hội có liên quan.
Các cấu
trúc chức năng thay thế.
Giống như nhiều nhà chức năng luận, Merton chỉ ra
những nhu cầu chức năng cần phải đáp ứng để xã hội vận hành một cách bình
thường và gọi chúng là “những điều kiện
tiên quyết về mặt chức năng đối với xã hội”. Nhưng khác với họ, Merton cho
rằng không nhất thiết mỗi thiết chế xã hội chỉ đáp ứng một loại nhu cầu xã hội.
Mà trên thực tế, trong xã hội luôn có “các
cấu trúc chức năng thay thế nhau” để thoả mãn các yêu cầu chức năng mà xã
hội đặt ra. Một chức năng có thể do hai hay nhiều hơn các tổ chức, thiết chế xã
hội cùng có khả năng thực hiện. Điều này có nghĩa là những thiết chế hiện hành,
đang được duy trì không phải vì chúng thực sự cần thiết và thực sự tốt hay có
lợi cho xã hội; mà chẳng qua chúng có cơ chế để tồn tại và có khả năng để duy
trì sự tồn tại của chúng bất chấp việc chúng có thực sự cần thiết hay có chức
năng hay không.
Các thiết chế xã hội luôn luôn có khả năng thay thế
lẫn nhau trong việc đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho sự vận hành và hoạt
động của xã hội. Ví dụ, khi xã hội chưa có nhà trường theo nghĩa đang dùng hiện
nay thì gia đình là thiết chế thực hiện chức năng giáo dục trẻ em. Khi các
doanh nghiệp quốc doanh không có khả năng tạo việc làm cho mọi người lao động
thì gia đình trở thành một trong những thiết chế xã hội đóng vai trò tạo việc
làm cho các thành viên trong gia đình. Khi người già không được chăm sóc tại
gia đình thì trong xã hội xuất hiện các trung tâm dưỡng lão cung cấp loại dịch
vụ này.
Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích
chức năng luận để giải thích sự sai lệch xã hội. Merton làm rõ ý tưởng của
Parsons về vai trò của yếu tố văn hoá, yếu tố thiết chế và sự phân hoá định
hướng-giá trị trong việc phân loại hành vi sai lệch. Parsons cho rằng sự lệch
chuẩn diễn ra trong hệ thống của sự phân hoá hành động theo xu hướng đối lập
nhau là chủ động và thụ động và sự phân hoá động cơ thành thoả hiệp và xa lạ[10].
Merton đưa ra định nghĩa: sự lệch chuẩn là sự không
phù hợp, sự “lệch pha” giữa mục tiêu
văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá
hoặc chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm
chí là tội phạm. Như vậy, sự lệch chuẩn xã hội là do sự lệch lạc so với chuẩn
mực xã hội trong việc lựa chọn một trong hai thành tố quan trọng nhất của cấu
trúc hành động, đó là mục tiêu và phương tiện.
Từ cách giải thích mang tính chức năng luận về sự lệch
chuẩn (Anomie), Merton đưa ra bảng
phân loại hành động để nhận diện các kiểu hành vi sai lệch xã hội[11].
Căn cứ vào việc xã hội chấp nhận (ký hiệu là dấu +) hay bác bỏ (ký hiệu là dấu –
) mục tiêu và phương tiện, Merton phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với
xã hội như sau:
Xếp tất cả năm kiểu hành động này trên cùng một trục
ta thấy kiểu hành động thoả hiệp nằm ở cực “bình
thường, đúng mực” đối lập với kiểu nổi loạn ở cực “bất thường, sai lệch”. Các kiểu hành động còn lại nằm dọc trên trục
này, cụ thể sau “thoả hiệp” là “đổi
mới”, tiếp đến là “nghi thức” rồi
“thoái lui” và cuối cùng là “nổi loạn”.
Sự khác biệt giữa các kiểu ứng xử xã hội chủ yếu là ở
nhận thức và thái độ đánh giá của xã hội đối với từng biểu hiện của mục tiêu
văn hoá và phương tiện được lựa chọn để thực hiện mục tiêu. Tiêu chuẩn để xác
định mức độ đúng mực hay sai lệch của hành động phụ thuộc vào hệ quả của nó đối
với xã hội. Điều này liên quan tới câu hỏi phương pháp luận của thuyết cấu
trúc-chức năng mà Merton đã đặt ra, là: hành động xã hội có chức năng hay phản
chức năng đối với ai?
Cuối thế kỷ 20, chủ thuyết cấu trúc – chức năng được
phát triển lên một bước nữa nhờ những đóng góp của nhà xã hội học nổi tiếng
người Mỹ là Peter Blau (1918-2002). Trong cuốn sách Bất bình đẳng và sự hỗn tạp[13],
Blau đã cung cấp cách nhìn nhận mới để giải đáp một câu hỏi cơ bản của xã hội
học: cái gì tạo nên sự thống nhất xã hội? Blau cho rằng nhất định có một loại
liên kết xã hội, một loại quan hệ xã hội nào đó có khả năng tạo ra sự thống
nhất xã hội. Theo ông, sự kết hợp của các nhóm và các tầng lớp xã hội khác nhau
thành một thể thống nhất không thể chỉ dựa vào mối phụ thuộc lẫn nhau về mặt
chức năng mà đòi hỏi sự tương tác xã hội thực sự giữa các thành viên. Blau phân
biệt hai loại đặc điểm cơ bản của cấu trúc xã hội quy định vị trí, vai trò và
mối liên hệ xã hội của các cá nhân.
Tương ứng với hai loại đặc điểm này là hai kiểu cấu
trúc xã hội như sau:
Cũng thuộc chủ thuyết cấu trúc – chức năng, nhưng lý
thuyết của Athony Giddens lại nhấn mạnh chiều cạnh quá trình của hệ thống xã
hội. Từ đó Giddens đưa ra thuyết cấu trúc hoá với luận điểm cốt lõi là con
người với tư cách là những hành thể (Actor
– diễn viên, người hành động)
luôn tái tạo ra các cấu trúc xã hội, đồng thời hành động của họ bị cấu trúc xã
hội quy định. Thông qua các hành vi, hoạt động của mình, con người tạo dựng,
thay đổi những cấu trúc xã hội mà họ là thành viên[14].
Sự cấu trúc hoá diễn ra trong thời gian, không gian và trong suốt cuộc sống của
mỗi cá nhân. Nhờ mặt tích cực của hành động cá nhân mà cấu trúc xã hội được tái
tạo một cách sinh động, liên tục chứ không máy móc.
Theo Giddens, cấu trúc gồm các quy tắc và các nguồn
lực được sử dụng trong quá trình tái tạo các hệ thống xã hội. Các quy tắc cho
biết con người phải làm gì và làm như thế nào khi tương tác xã hội, còn các
nguồn lực vật chất-tinh thần giúp con người đạt được mục đích của họ[15].
Giddens chỉ ra một số yếu tố tác động tới sự tái tạo
xã hội – sự cấu trúc hoá xã hội. Trong số đó có sự hiểu biết lẫn nhau, sự tự
chủ, sự tin cậy, thói quen và những yếu tố khác thuộc về điều kiện bên trong và
điều kiện bên ngoài. Lý thuyết cấu trúc hoá nhấn mạnh tính chất hai mặt của
hành động người và cấu trúc xã hội cũng như nói đến quá trình chuyển hoá và tái
tạo lẫn nhau của chúng.
Với việc đưa ra lý thuyết cấu trúc hoá, Giddens hy
vọng giải quyết được những vấn đề “tiến
thoái lưỡng nan” của khoa học xã hội nói chung và chủ thuyết cấu trúc-chức
năng nói riêng. Đó là cặp vấn đề “hành
động người và cấu trúc xã hội”, “trật
tự và mâu thuẫn”, vấn đề lồng ghép quan niệm giới trong xã hội học và vấn
đề nghiên cứu, dự báo sự phát triển của xã hội hiện đại. Thuyết cấu trúc – chức
năng được triển khai và phát triển thông qua các biến thể mới như thuyết hậu
cấu trúc và thuyết hậu chức năng để lý giải những biến đổi mới ở những nước
công nghiệp phát triển cao, nhưng lại khó giải thích được những biến đổi mới ở
những nước chậm phát triển và đang phát triển.
[1] Parsons viết: “Khi một tập hợp các hiện tượng phụ thuộc lẫn nhau cho
thấy tính ổn định và tính khuôn mẫu đủ rõ ràng trong khoảng thời gian nhất định
thì ta có thể nói là nó có “cấu trúc”
và có thể coi nó như là một “hệ thống”.
Trong James Farganis. Readings in Social Theory: the Clasic Trandition to
Post-Modernism. McGraw-Hill, Inc. 1993. Tr. 213.
[2] Về cuốn Hệ thống xã hội của
mình, Parsons viết: “Cuốn sách này rõ ràng là bài luận về lý thuyết có tính hệ thống. Nó không phải là sự thử
nghiệm trình bày lý thuyết về một hiện tượng cụ thể nhất định, mà là sự cố gắng
trình bày một sơ đồ khái niệm được diễn đạt một cách logic”. Talcott Parsons. The Social System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 536.
[3]
Talcott Parsons. The Social
System, trong James Farganis. Readings in Social Theory: The Clasic Trandition to
Post-Modernism. McGraw-Hill, Inc. 1993. Tr. 213-216
[4] Talcott Parsons. The Social
System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 19
[5] Talcott Parsons. The Social
System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 25.
[6] Talcott Parsons. The Social
System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 26
[7]
Robert J. Holton. “Four-Function” paradigm,
trong George Ritzer
and Barry Smart (eds). Handbook
of Social Theory. London: Sage
Publications. 2001. Tr. 155.
[8] Jeffrex Alexander. Văn
hoá và thuyết chức năng, trong Đỗ Lai Thuý. Theo vết chân những người khổng lồ: tân Guylivơ phiêu lưu ký về các lý
thuyết văn hoá. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội. 2006. Tr. 57.
[9] Đối với Parsons, lý thuyết xã hội học, với tư cách là
một khía cạnh của lý thuyết về các hệ thống xã hội, chủ yếu quan tâm tới hiện
tượng thiết chế hoá các khuôn mẫu định hướng-giá trị trong hệ thống xã hội.
Talcott Parsons. The Social System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 552.
[10] Khung khái niệm (Paradigm) của Merton về sự lệch chuẩn
là một trường hợp quan trọng của cấu trúc xã hội của hành vi sai lệch do
Parsons đưa ra. Talcott Parsons. The Social
System. Glencoe, Illinais: The Pree
Press. 1951. Tr. 257-258
[11] Hồ Diệu Thuý. Điểm qua các lý
thuyết xã hội học về lệch lạc và tội phạm. Tạp chí Xã hội học. Số 1. 2000. Tr. 95-101.
[12] Có nơi có thời kỳ, việc làm giàu ngay cả một cách chính đáng cũng có
thể bị lên án là xấu xa, là bóc lột. Ngày nay, tình hình đã đổi mới: nhưng “làm
giàu” chỉ được đề cao là mục đích chứ không phải là lý tưởng.
[13]
Peter Blau. Inequality and
Heterogeneity: A Primitive Theory of Social Structure. New York: The Free
Press. 1977.
[14] Giddens viết: “Cấu trúc bao gồm các khuôn mẫu hay các mối quan hệ có
thể quan sát được trong sự đa dạng của các khung cảnh xã hội”. Anthony Giddens.
Social Theory and Modern Sociology.
Stanford California: Stanford University
Press. 1987. Tr. 60.
[15] Giddens viết: theo quan niệm về tính hai mặt của cấu
trúc, cấu trúc không phải nằm ngoài hành động người và cũng không phải là cái
hạn chế nó. “Cấu trúc vừa là phương tiện vừa là sản phẩm của các hoạt động của
con người mà nó liên tục tổ chức”. Anthony Giddens. Social Theory and Modern Sociology. Stanford California:
Stanford University Press. 1987. Tr. 61.