Tổng quan ngành Thương mại Điện tử | Ecommerce (TMĐT)

Người học Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT) sẽ được đào tạo như một chuyên gia trong Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT), về kiến thức không chỉ tập trung vào các mảnh nhỏ trong bài toán kinh doanh mà sẽ bao quát về tất cả những khía cạnh

Giới thiệu chung

ngành Thương mại Điện tử

| Ecommerce (TMĐT)

Nguồn: Tuyển sinh tuyensinh.uit.edu.vn

Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT) là hình thức kinh doanh trực tuyến sử dụng nền tảng công nghệ thông tin với sự hỗ trợ của Internet để thực hiện các giao dịch mua bán, trao đổi, thanh toán trực tuyến.

Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)là xu hướng của thời đại toàn cầu hóa, đây là lĩnh vực tiềm năng để các doanh nghiệp vừa và nhỏ sinh lợi và phát triển, cơ hội cho những ai muốn khởi nghiệp kinh doanh theo mô hình mới.

Mô hình kinh doanh Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)được xem như một trong những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.

Top 3 các công ty Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)hàng đầu:

– Thế giới: Amazon, Ebay, Alibaba.

– Việt Nam: Lazada, Tiki, Adayroi.

Top 3 doanh nhân tỷ phú thành công nhờ Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT):

 

Jeff Bezos, sáng lập kiêm CEO Amazon

– Lãnh đạo Amazon.com trở thành website số 1 thế giới về Thương mại điện tử.

 

Jack Ma, sáng lập kiêm chủ tịch điều hành Alibaba

– Dẫn đường Alibaba.com đạt vị trí số 1 về Thương mại điện tử tại Trung Quốc và châu Á.

 

Anthony Tan, đồng sáng lập kiêm CEO Grab

– Đã góp phần biến Grab trở thành một trong những dịch vụ gọi xe hàng đầu ở Đông Nam Á.

 

Doanh số từ Thương mại điện tử đang chứng minh đây là lĩnh vực kinh doanh có triển vọng tăng trưởng toàn cầu dài hạn. Theo báo cáo chỉ số Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)Việt Nam (EBI) 2017, tổng giá trị giao dịch Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)trong năm 2016 trên thế giới đã vượt 1000 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng trường ở mức 17% mỗi năm. Bên cạnh đó Thương mại trên nền tảng thiết bị di động đang dần phát triển mạnh mẽ đạt được trên 20% doanh thu Thương mại điện tử.

Dự đoán trong 10 năm sắp tới xu hướng mua sắm trên các nền tảng Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT) sẽ phát triển mạnh mẽ thay thế dần các mô hình kinh doanh truyền thống.

Ngành

Thương mại điện tử

|

E-Commerce

(TMĐT)

đào tạo những gì?

Ngành học Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)là sự giao thoa giữa ngành kinh doanh và công nghệ thông tin. Sinh viên Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)được trang bị nhóm kiến thức sau:

·        Phát triển tư duy sáng tạo, định hướng kinh doanh, lên ý tưởng khởi nghiệp

·        Khả năng  tự phát triển ý tưởng kinh doanh Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)trên nền tảng  website, thiết bị di động (IOS, Android)

·        Tiếp thị trực tuyến , tiếp thị nội dung trên nền tảng Facebook, Google, Youtube.

·        Quản trị đơn hàng, bán hàng, quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực,…

·        Phát triển hệ thống và chăm sóc khách hàng, nhà cung cấp.

 

Ngành Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)của UIT đào tạo sinh viên đạt 3 kỹ năng chuyên nghiệp để thích ứng với thay đổi của thị trường

·

       

Đào tạo các kỹ năng “thực chiến” trong lĩnh vực

Thương mại điện tử

|

E-Commerce

(TMĐT)

Người học Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)sẽ được đào tạo như một chuyên gia trong Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT), về kiến thức không chỉ tập trung vào các mảnh nhỏ trong bài toán kinh doanh mà sẽ bao quát về tất cả những khía cạnh trong Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)như: tiếp thị sản phẩm, chuỗi cung ứng, định giá và quản lý lợi nhuận, bán hàng, dịch vụ khách hàng. Sau tất cả, chính là cách suy nghĩ và quản trị một công ty Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT).

Đây là lý do mà ngày càng nhiều nhà tuyển dụng ưu tiên tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp ngành Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT).

·

       

Đào tạo các kỹ năng “thấu hiểu” khách hàng

Hiểu được khách hàng, xem khách hàng như trung tâm luôn là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của bạn. Người học sẽ được đào tạo các kỹ năng quan sát và ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng ra các mô hình, khai phá các mối liên hệ giữa hành vi mua sắm của người tiêu dùng và hành vi xã hội của họ.

Đây là những kỹ năng xuất sắc trong nghệ thuật tiếp thị để xây dựng sớm trong sự nghiệp.

·

       

Đào tạo kỹ năng giúp người học “tạo ra khác biệt” để thành công

Kiến thức về Thương mại điện tử rất cần thiết cho bất cứ ai, các bạn có thể tự thành lập công ty, tạo ra những mô hình kinh doanh tinh gọn với chi phí thấp, hiệu quả cao phù hợp với nguồn vốn của mình. Biến sở thích của bạn thành nguồn thu nhập bổ sung. Tự quảng bá cho một sản phẩm của mình hoặc giúp hỗ trợ xây dựng các mô hình kinh doanh online cho gia đình, người thân.

Kiến thức và kỹ năng được đào tạo về Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)sẽ tạo ra sự khác biệt trong sự nghiệp và đem đến thành công cho bạn.

Sinh viên tốt nghiệp sẽ làm việc ở các vị trí công việc nào?

Sinh viên tốt nghiệp ngành Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)có thể làm việc ở các doanh nghiệp trong nước và quốc tế tại các vị trí:

·        Chuyên viên kinh doanh trực tuyến: ứng dụng Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT)vào công việc kinh doanh trực tuyến, tăng khả năng kinh doanh.

·        Chuyên viên tư vấn: Hoạch định chính sách phát triển hệ thống Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT), xây dựng và bảo trì các dự án Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT), chiến lược Quản trị doanh nghiệp thương mại điện tử.

·        Chuyên viên Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT): xây dựng các hệ thống giao dịch Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT), kinh doanh trực tuyến tại cơ quan và doanh nghiệp (hành chính sự nghiệp, ngân hàng, viễn thông, hàng không, xây dựng…).

·        Giảng dạy đào tạo: Cán bộ giảng dạy nghiên cứu và ứng dụng Thương mại điện tử | E-Commerce (TMĐT).

·        Khởi nghiệp doanh nhân: xây dựng kế hoạch kinh doanh để biến ý tưởng thành hiện thực…

 

 

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  

Theo Wikipedia

 

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT), hay còn gọi là e-commerce (ecommerce), e-comm hay EC, là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính. Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  dựa trên một số công nghệ như chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho, và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu. Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải có trong chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt công nghệ như email, các thiết bị di động cũng như điện thoại.

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  thông thường được xem ở các khía cạnh của kinh doanh điện tử (e-business). Nó cũng bao gồm việc trao đổi dữ liệu tạo điều kiện thuận lợi cho các nguồn tài chính và các khía cạnh thanh toán của việc giao dịch kinh doanh.

E-commerce có thể được dùng theo một vài hoặc toàn bộ những nghĩa như sau:

•    E-tailing (bán lẻ trực tuyến) hoặc “cửa hàng ảo” trên trang web với các danh mục trực tuyến, đôi khi được gom thành các “trung tâm mua sắm ảo”.

•    Việc thu thập và sử dụng dữ liệu cá nhân thông qua các địa chỉ liên lạc web

•    Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), trao đổi dữ liệu giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp

•    Email, fax và cách sử dụng chúng như là phương tiện cho việc tiếp cận và thiếp lập mối quan hệ với khách hàng (ví dụ như bản tin – newsletters)

•    Việc mua và bán giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp

•    Bảo mật các giao dịch kinh doanh

Sự hình thành Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)

Về nguồn gốc, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  được xem như là điều kiện thuận lợi của các giao dịch Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) , sử dụng công nghệ như EDI và EFT. Cả hai công nghệ này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các doanh nghiệp gửi các hợp đồng điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự phát triển và chấp nhận của thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động (ATM) và ngân hàng điện thoại vào thập niên 80 cũng đã hình thành nên Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) . Một dạng Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  khác là hệ thống đặt vé máy bay bởi Sabre ở Mỹ và Travicom ở Anh.

Vào thập niên 90, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  bao gồm các hệ thống hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (ERP), khai thác dữ liệu và kho dữ liệu.

Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra WorldWideWeb trình duyệt web và chuyển mạng thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được gọi là Internet (www). Các công ty thương mại trên Internet bị cấm bởi NSF cho đến năm 1995.[3] Mặc dù Internet trở nên phổ biến khắp thế giới vào khoảng năm 1994 với sự đề nghị của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất tới 5 năm để giới thiệu các giao thức bảo mật (mã hóa SSL trên trình duyệt Netscape vào cuối năm 1994) và DSL cho phép kết nối Internet liên tục. Vào cuối năm 2000, nhiều công ty kinh doanh ở Mỹ và Châu Âu đã thiết lập các dịch vụ thông qua World Wide Web. Từ đó con người bắt đầu có mối liên hệ với từ “ecommerce” với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông qua Internet dùng các giao thức bảo mật và dịch vụ thanh toán điện tử.

Mốc thời gian

Các mốc thời gian về sự phát triển của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  như sau:

•    1979: Michael Aldrich phát minh mua sắm trực tuyến

•    1982: Minitel được giới thiệu tại Pháp thông qua France Telecom và sử dụng để đặt hàng trực tuyến.

•    1984: Gateshead SIS/Tesco là trang mua bán trực tuyến dạng B2C đầu tiên và bà Snowball, 72 tuổi, là khách hàng mua hàng trực tuyến đầu tiên.

•    1984: Tháng 4 năm 1984, CompuServe ra mắt Trung tâm Mua sắm Điện tử ở Mỹ và Canada. Đây là dịch vụ Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  đầu tiên toàn diện.

•    1990: Tim Berners-Lee xây dựng trình duyệt đầu tiên, WorldWideWeb, sử máy máy NeXT.

•    1992: Terry Brownell ra mắt hệ thống bảng Bulletin cửa hàng trực tuyến dùng RoboBOARD/FX.

•    1994: Netscape tung trình duyệt Navigator vào tháng 10 với tên là Mozilla. Pizza Hut đặt hàng trên trang web này. Ngân hàng trực tuyến đầu tiên được mở. Một số nỗ lực nhằm cung cấp giao hoa tươi và đăng ký tạp chí trực tuyến. Các dụng cụ “người lớn” cũng có sẵn như xe hơi và xe đạp. Netscape 1.0 được giới thiệu vào cuối năm 1994, giao thức mã hóa SSL làm cho các giao dịch bảo mật hơn.

•    1995: Thứ năm, ngày 27 tháng 4 năm 1995, việc mua sách của ông Paul Stanfield, Giám đốc sản xuất của công ty CompuServe tại Anh, từ cửa hàng W H Smith trong trung tâm mua sắm CompuServe là dịch vụ mua hàng trực tuyến đầu tiên ở Anh mang tính bảo mật. Dịch vu mua sắm trực tuyến bắt đầu từ WH Smith, Tesco, Virgin/Our Price, Great Universal Stores/GUS, Interflora, Dixons Retail, Past Times, PC World (retailer) và Innovations.[7]

•    1995: Jeff Bezos ra mắt Amazon.com và thương mại miễn phí 24h, đài phát thanh trên Internet, Radio HK và chương trình phát sóng ngôi sao NetRadio. Dell và Cisco bắt đầu tích cực sử dụng Internet cho các giao dịch thương mại. eBay được thành lập bởi máy tính lập trình viên Pierre Omidyar như là dạng AuctionWeb.

•    1998: Tem điện tử được mua bán và tải trực tuyến từ Web.

•    1998: Alibaba Group được hình thành ở Trung Quốc.

•    1999: Business.com bán khoảng 7.5 triệu USD cho eCompanies, được mua vào năm 1997 với giá 149,000 USD. Phần mềm chia sẻ tập tin ngang hàng Napster ra mắt. ATG Stores ra mắt các sản phẩm trang trí tại nhà trực tuyến.

•    2000: bùng nổ dot-com.

•    2001: Alibaba.com đạt lợi nhuận trong tháng 12 năm 2001.

•    2002: eBay mua lại PayPal với 1.5 tỉ USD.

•    2003: Amazon.com đăng tải bài viết lợi nhuận hàng năm.

•    2004: DHgate.com, công ty B2C giao dịch trực tuyến đầu tiên ở Trung Quốc được thành lập, buộc các trang web khác B2B bỏ mô hình “trang vàng”.

•    2005: Yuval Tal sáng lập giải pháp phân phối thanh toán trực tuyến bảo mật.

•    2007: Business.com mua lại bởi R.H. Donnelley với 345 triệu USD.

•    2009: Zappos.com mua lại bởi Amazon.com với 928 triệu USD.

•    2010: Groupon ra báo cáo từ chối một lời đề nghị mua lại trị giá 6 tỷ USD từ Google. Thay vào đó, Groupon có kế hoạch đi trước với IPO vào giữa năm 2011.

•    2011: Quidsi.com, công ty cha của Diapers.com, được mua lại bởi Amazon.com với 500 triệu USD tiền mặt cộng với 45 triệu nợ và các nghĩa vụ khác. GSI Commerce, công ty chuyên tạo ra, phát triển và thực thi trang web mua sắm trực tuyến cho dịch vụ gạch và vữa trong kinh doanh, được mua lại bởi eBay với 2.4 tỉ USD.

•    2012: Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  và Doanh số bán lẻ trực tuyến của Mỹ dự kiến đạt 226 tỷ USD, tăng 12%so với năm 2011.

Khái niệm Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)

Khi nói về khái niệm Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  (E-Commerce), nhiều người nhầm lẫn với khái niệm của Kinh doanh điện tử (E-Business). Tuy nhiên, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  đôi khi được xem là tập con của kinh doanh điện tử. Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  chú trọng đến việc mua bán trực tuyến (tập trung bên ngoài), trong khi đó kinh doanh điện tử là việc sử dụng Internet và các công nghệ trực tuyến tạo ra quá trình hoạt động kinh doanh hiệu quả dù có hay không có lợi nhuận, vì vậy tăng lợi ích với khách hàng (tập trung bên trong).

Một số khái niệm Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  được định nghĩa bởi các tổ chức uy tín thế giới như sau:

•    Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet”.

•    Theo Ủy ban Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: “Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  liên quan đến các giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân) mang tính điện tử chủ yếu thông qua các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet.”  Các kỹ thuật thông tin liên lạc có thể là email, EDI, Internet và Extranet có thể được dùng để hỗ trợ Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) .

•    Theo Ủy ban châu Âu: “Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  có thể định nghĩa chung là sự mua bán, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hay các mạng máy tính trung gian (thông tin liên lạc trực tuyến). Thật ngữ bao gồm việc đặt hàng và dịch thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán và quá trình vận chuyển hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ công.”

Tóm lại, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  chỉ xảy ra trong môi trường kinh doanh mạng Internet và các phương tiện điện tử giữa các nhóm (cá nhân) với nhau thông qua các công cụ, kỹ thuật và công nghệ điện tử. Ngoài ra, theo nghiên cứu tại đại học Texas, các học giả cho rằng Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  và kinh doanh điện tử đều bị bao hàm bởi nền kinh tế Internet.

Các ứng dụng kinh doanh

Một số ứng dụng chung nhất liên quan đến Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  được liệt kê dưới đây:

•    Tài liệu tự động hóa ở chuỗi cung ứng và hậu cần

•    Hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế

•    Quản lý nội dung doanh nghiệp

•    Nhóm mua

•    Trợ lý tự động trực tuyến

•    IM (Instant Messaging)

•    Nhóm tin

•    Mua sắm trực tuyến và theo dõi đặt hàng

•    Ngân hàng điện tử

•    Văn phòng trực tuyến

•    Phần mềm giỏ hàng

•    Hội thảo truyền thông trực tuyến

•    Vé điện tử

•    Nhắn tin nhanh

•    Mạng xã hội

•    Mua bán dịch vụ trực tuyến

Các hình thức Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)

 

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  ngày nay liên quan đến tất cả mọi thứ từ đặt hàng nội dung “kỹ thuật số” cho đến tiêu dùng trực tuyến tức thời , để đặt hàng và dịch vụ thông thường, các dịch vụ “meta” đều tạo điều kiện thuận lợi cho các dạng khác của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) .

Ở cấp độ tổ chức, các tập đoàn lớn và các tổ chức tài chính sử dụng Internet để trao đổi dữ liệu tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong nước và quốc tế. Tính toàn vẹn dữ liệu và tính an ninh là các vấn đề rất nóng gây bức xúc trong Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) .

Hiện nay có nhiều tranh cãi về các hình thức tham gia cũng như cách phân chia các hình thức này trong Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) . Nếu phân chia theo đối tượng tham gia thì có 3 đối tượng chính bao gồm: Chính phủ (G – Government), Doanh nghiệp (B – Business) và Khách hàng (C – Customer hay Consumer). Nếu kết hợp đôi một 3 đối tượng này sẽ có 9 hình thức theo đối tượng tham gia: B2C, B2B, B2G, G2B, G2G, G2C, C2G, C2B, C2C. Trong đó, các dạng hình thức chính của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  bao gồm:

·        Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B)

·        Doanh nghiệp với Khách hàng (B2C)

·        Doanh nghiệp với Nhân viên (B2E)

·        Doanh nghiệp với Chính phủ (B2G)

·        Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B)

·        Chính phủ với Chính phủ (G2G)

·        Chính phủ với Công dân (G2C)

·        Khách hàng với Khách hàng (C2C)

·        Khách hàng với Doanh nghiệp (C2B)

Ngoài ra, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  còn được phân chia theo các hình thức:

·        online-to-offline (O2O)

Khuynh hướng toàn cầu

Mô hình kinh doanh trên toàn cầu tiếp tục thay đổi đáng kể với sự ra đời của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) . Nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã đóng góp vào sự phát triển của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) . Ví dụ, nước Anh có chợ Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  lớn nhất toàn cầu khi đo bằng chỉ số chi tiêu bình quân đầu người, con số này cao hơn cả Mỹ. Kinh tế Internet ở Anh có thể tăng 10% từ năm 2010 đến năm 2015. Điều này tạo ra động lực thay đổi cho ngành công nghiệp quảng cáo.

Trong số các nền kinh tế mới nổi, sự hiện diện của Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  ở Trung Quốc tiếp tục được mở rộng. Với 384 triệu người sử dụng Internet, doanh số bán lẻ của cửa hàng trực tuyến ở Trung Quốc đã tăng 36,6 tỉ USD năm 2009 và một trong những lý do đằng sau sự tăng trưởng kinh ngạc là cải thiện độ tin cậy của khách hàng. Các công ty bán lẻ Trung Quốc đã giúp người tiêu dùng cảm thấy thoải mái hơn khi mua hàng trực tuyến.

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  cũng được mở rộng trên khắp Trung Đông. Với sự ghi nhận là khu vực có tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong việc sử dụng Internet từ năm 2000 đến năm 2009, hiện thời khu vực có hơn 60 triệu người sử dụng Internet. Bán lẻ, du lịch và chơi game là các phần trong Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  hàng đầu ở khu vực, mặc dù có các khó khăn như thiếu khuôn khổ pháp lý toàn khu vực và các vấn đề hậu cần trong giao thông vận tải qua biên giới.

Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  đã trở thành một công cụ quan trọng cho thương mại quốc tế không chỉ bán sản phẩm mà còn quan hệ với khách hàng.

Các tác động đến thị trường và người bán lẻ

Các nhà kinh tế học đã đưa ra giả thuyết rằng Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  sẽ dẫn đến việc cạnh tranh giá cả sản phẩm. Thực vậy, Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  giúp người tiêu dùng thu thập nhanh chóng và dễ dàng thông tin đa dạng về sản phẩm, giá cả và người bán. Ngày nay đã xuất hiện nhiều website chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá về sản phẩm và nhà cung cấp, so sánh giá cả giữa các website bán hàng. Hơn nữa, người tiêu dùng có thể trực tiếp đưa ra các đánh giá của mình về nhiều khía cạnh liên quan tới giao dịch mua sắm, giúp cho những người khác có nhiều cơ hội chọn lựa sản phẩm phù hợp nhất, hoặc chọn được người bán cung cấp dịch vụ tốt nhất, hoặc mua được sản phẩm với giá rẻ nhất.

Theo nghiên cứu của bốn nhà kinh học tế học tại Đại học Chicago đã cho thấy sự phát triển của hình thức mua sắm trực tuyến đã ảnh hưởng đến cấu trúc trong hai ngành tạo ra sự tăng trưởng đáng kể trong Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  là bán sách và đại lý du lịch. Tóm lại, các doanh nghiệp lớn hơn có cơ hội để giảm chi phí so với những doanh nghiệp nhỏ hơn do các doanh nghiệp lớn có lợi thế về quy mô kinh tế và đưa ra mức giá thấp hơn.

 

Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)

Việc đánh giá tình hình phát triển Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, chẳng hạn một bang hay một tỉnh có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và pháp luật cũng như các nhà đầu tư. Trên quy mô toàn cầu, những tổ chức như ITU hay EIU hàng năm đưa ra các chỉ số định lượng về sự phát triển công nghệ thông tin hay kinh tế số.

Ở Việt Nam, Hiệp hội Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  Việt Nam (VECOM) đã tiến hành hoạt động xây dựng Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  lần đầu tiên vào năm 2012. Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  (viết tắt là EBI từ tiếng Anh E-Business Index) được xây dựng theo các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương dựa trên bốn nhóm tiêu chí lớn. Nhóm thứ nhất là nguồn nhân lực và hạ tầng công nghệ thông tin. Nhóm thứ hai là giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C). Nhóm thứ ba là giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B). Nhóm thứ tư là giao dịch giữa chính phủ với doanh nghiệp (G2B).

Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  giúp các đối tượng nhanh chóng xác định được mức độ triển khai thương mại điện trên phạm vi cả nước cũng như tại từng địa phương, sự tiến bộ qua các năm và gợi ý cho mỗi địa phương những giải pháp cần thiết để nâng cao ứng dụng Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT) .

Từ năm 2012, VECOM liên tục công bố Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  cho mỗi năm.[41] Báo cáo năm 2015 đã gợi ý từ năm 2016 Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  sẽ bước sang giai đoạn phát triển nhanh. Theo VECOM, giai đoạn một từ 1998 đến hết năm 2005 là giai đoạn hình thành Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  ở Việt Nam. Giai đoạn hai bắt đầu từ năm 2006 đến hết năm 2015 là giai đoạn phổ cập với xấp xỉ một nửa dân số truy cập Internet và đông đảo dân chúng, đặc biệt là dân thành thị và giới trẻ đã mua sắm trực tuyến.

Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  năm 2015 cũng chỉ ra sự chênh lệch rất lớn về giao dịch Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  giữa các địa phương. Hai thành phố lớn nhất và cũng là hai trung tâm kinh tế là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh có sự phát triển tương đương và chiếm tới khoảng 80% Thương mại điện tử |Ecommerce (TMĐT)  của cả nước. Phát hiện này cho thấy các cơ quan hoạch định chính sách cần có những giải pháp phù hợp để thu hẹp khoảng cách số giữa các địa phương.