Tổng hợp ý kiến xây dựng các Dự án Luật – Đoàn Đại biểu Quốc Hội TPHCM
Để chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Đoàn đại biểu Quốc Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi văn bản lấy ý kiến của các sở, ngành, đơn vị và các chuyên gia góp ý cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
Dưới đây là tổng hợp các ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật:
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1- Về sự cần thiết ban hành dự thảo Luật
Các ý kiến đều nhất trí với việc cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập của Luật; đồng thời tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách được xác định trong một số văn kiện của Đảng; bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Đối với các nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể cần xuất phát từ quan điểm trên và có tổng kết thực tiễn thi hành, đánh giá tác động.
2- Về phạm vi sửa đổi, bổ sung
Có ý kiến cho rằng để xử lý bất cập của Luật hiện hành và bảo đảm tính tương đồng của hệ thống pháp luật, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cần thiết điều chỉnh tăng mức phạt tiền để đảm bảo tính răn đe và giảm thiểu hành vi vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng nội dung sửa đổi trong dự thảo Luật chưa có sự thống nhất giữa Bộ Luật hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể:
+ Theo quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành và dự thảo Luật chưa quy định cụ thể mức phạt tiền cũng như thời gian đình chỉ quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong các trường hợp tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà mới chỉ quy định mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó (đối với trường hợp bình thường).
+ Tại các Điều 173 (tội trộm cắp tài sản), Điều 174 (tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản) Bộ Luật Hình sự 2015 quy định nếu đối tượng vi phạm đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn tái phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên tại khoản 3, khoản 5 Điều 90 (quy định đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn), khoản 4 Điều 92 (quy định đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng) và khoản 1 Điều 94 (quy định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc) của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định những đối tượng trên nếu bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trong 06 tháng nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
3- Một số chế định cần bổ sung vào dự thảo Luật
– Ngày 24/11/2017, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Điều 6 Nghị quyết quy định:
“1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố được ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
2. Ủy ban nhân dân Thành phố quy định các nhiệm vụ, quyền hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện được ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; không được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố ủy quyền quy định tại Khoản 1 Điều này.”
Để phát huy hiệu quả của cơ chế ủy quyền theo tinh thần Nghị quyết số 54/2017/QH14 nêu trên và hướng đến hoàn thiện cơ chế này về lâu dài, đề nghị nghiên cứu bổ sung vào Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về việc phân cấp, ủy quyền trong xử lý vi phạm hành chính đối với các thành phố trực thuộc Trung ương.
– Về mức phạt tiền tối đa 06 lĩnh vực là cần thiết và có thể cao hơn để giảm thiểu hành vi vi phạm hành chính. Hành vi vi phạm hành chính ở mỗi lĩnh vực có thể có tính chất, mức độ khác nhau về hậu quả, vì vậy luật có thể phân loại hành vi vi phạm hành chính chi tiết hơn để quy định khung phạt hợp lý, giảm bớt khoảng cách tối thiểu và tối đa của khung phạt tiền.
– Về áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 138/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục thì các biện pháp này đều được cụ thể hóa trong các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Ví dụ như: “Buộc bổ sung môn học hoặc nội dung giáo dục còn thiếu theo chương trình giáo dục qui định”, “Buộc giảm số lượng tuyển sinh năm sau bằng số lượng đã tuyển vượt; buộc chuyển người học về địa điểm cấp phép” (khoản 7,8 Điều 8 Nghị định 138/NĐ-CP)…. Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả góp phần tạo ra sức răn đe, làm tăng ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm, đặc biệt trong trường hợp đã hết thời hiệu xử phạt thì đối tượng vi phạm vẫn phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên, trong thực tế công tác kiểm tra, theo dõi thi hành biện pháp khắc phục hậu quả chưa thật sự hiệu quả do đối tượng vi phạm thường không tự giác chấp hành cũng như lực lượng thực hiện nhiệm vụ này còn quá mỏng, đồng thời cũng không có biện pháp chế tài nên kết quả này thường không tốt. Đề nghị cần nghiên cứu bổ sung các quy định chế tài đủ mạnh để việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả thật sự có hiệu quả.
II- GÓP Ý CỤ THỂ CHO DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1- Sửa đổi, bổ sung khoản 5, Điều 2
1.1- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể đối tượng bị xử phạt là gia đình trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Vì theo nội dung tại khoản 2, Điều 5 thì việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức mà không quy định áp dụng đối với gia đình, hộ gia đình và cộng đồng dân cư. Trong khi, pháp luật một số chuyên ngành có quy định trách nhiệm và biện pháp chế tài đối với gia đình, hộ gia đình và cộng đồng dân cư.
– Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “ra quyết định” và “Không tính tái phạm đối với hành vi vi phạm hành chính thuộc trường hợp được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm” vì quy định này thừa.
Khoản 5, Điều 2 sửa lại như sau: “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện các hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính”.
– Cũng có ý kiến đề nghị sửa như sau “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt” vì thực tế quy định hiện nay, nếu cá nhân, tổ chức chưa chấp hành quyết định, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì chỉ bị phạt với hành vi mới như ban đầu (khoản 3, Điều 6, Nghị định 81/2013/NĐ-CP), thiếu tính răn đe, còn nếu chấp hành xong quyết định nhưng chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử phạt nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì lại bị xử phạt là tái phạm.
1.2- Khoản 10, Điều 2: có ý kiến đề nghị xem xét lại nội dung giải thích về khái niệm “Tổ chức” để có sự thống nhất với các quy định hiện nay trong pháp luật “Tổ chức” (Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ).
1.3- Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể hơn về “Sự kiện bất khả kháng” theo hướng “Là thiên tai, chiến tranh, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách, …đặc biệt là dịch bệnh đang xảy ra ảnh hưởng rất lớn đến các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp (bao gồm cả trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài)” dẫn đến hành vi vi phạm hành chính không mong muốn. Vì theo Điều 11 Luật Xử lý vi phạm hành chính, một trong những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính là do sự kiện bất khả kháng, nhưng Luật không quy định rõ sự kiện bất khả kháng là sự kiện nào.
1.4- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật giải thích các khái niệm thế nào là: cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt; trình độ lạc hậu; hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính; quy mô lớn, số lượng hoặc giá trị hàng hóa lớn; nhiều tình tiết phức tạp; vụ việc đặc biệt nghiêm trọng; vụ việc phức tạp; người chứng kiến;
2- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 6
– Có ý kiến đề nghị sửa nội dung khoản 1 như sau
“1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là thời hạn do Luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người vi phạm không bị xử phạt vi phạm hành chính.
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau:
Vi phạm hành chính về kế toán,… thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm
Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, khai sai nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế
b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được quy định như sau:
Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày chấm dứt hành vi vi phạm hành chính.
Đối với vi phạm hành chính đang thực hiện thì thời hiệu được tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày phát hiện hành vi vi phạm hành chính.
Chính phủ quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.”.
– Có ý kiến đề nghị xem lại nội dung “Chính phủ quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước”. Đề nghị cần quy định cụ thể trong dự thảo Luật, không giao thẩm quyền này cho Chính phủ đảm bảo việc triển khai thực hiện ngay khi Luật có hiệu lực thi hành.
3- Bổ sung điểm đ vào sau điểm d khoản 2, Điều 6
Có ý kiến đề nghị sửa từ “cố tình” thành từ “cố ý” để thống nhất với Bộ Luật hình sự. Điểm đ viết lại như sau: “Trong thời hạn được quy định tại điểm a, b, c và d khoản này mà cá nhân cố ý trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hiệu xử lý vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó”
4- Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1, Điều 10
Có ý kiến đề nghị sửa như sau “Tái phạm; vi phạm hành chính nhiều lần. Đối với trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần, ưu tiên áp dụng tình tiết tăng nặng, trừ trường hợp Chính phủ quy định việc xử phạt về từng hành vi vi phạm hành chính nhiều lần trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước”.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ quy định tại Điều 9, Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính cho phù hợp với thực tế vi phạm trong một số lĩnh vực. Vì theo quy định hiện nay, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chỉ phù hợp đối với lĩnh vực an ninh trật tự.
5- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 18
Có kiến nghị không áp dụng thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới khi phát hiện có sai sót theo thời hạn tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, hiện nay chưa hướng dẫn cụ thể liên quan đến nội dung này nên kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sớm có hướng dẫn tháo gỡ vướng mắc cho địa phương đối với trường hợp ban hành quyết định mới khi phát hiện có sai sót. Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày hoặc 30 ngày hoặc gia hạn thêm 30 ngày tùy từng vụ việc. Nếu thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới vẫn phải tuân theo quy định tại Điều 66 thì hầu hết tất cả các trường hợp đều không thể thực hiện được vì tính đến thời điểm phát hiện sai sót đã quá thời hạn ra quyết định xử phạt, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trường hợp người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt, mặc dù đã dùng mọi biện pháp để thi hành quyết định xử phạt, trong đó có áp dụng biện pháp cưỡng chế nhưng quyết định xử phạt không thể thi hành trên thực tế vì một số lý do khách quan thì cho phép chuyển hồ sơ.
6- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 21
Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn “trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 65, khoản 1 Điều 74 và Điều 75 và khoản 2a Điều 88 của Luật này.” Vì các biện pháp quy định tại Điểm c, d, đ, khoản 1, Điều 21 của Luật Xử phạt vi phạm hành chính vừa có thể là biện pháp xử phạt bổ sung, nhưng cũng có thể được áp dụng là biện pháp xử phạt chính. Khoản 3 viết lại như sau: “Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung quy định đối với hành vi đó. Hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính”
7- Sửa đổi, bổ sung Điều 23
Khoản 1: có ý kiến đề nghị bổ sung vào cuối khoản 1, Điều 23 nội dung qui định như sau: “Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật này.
Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng” vì đây là lĩnh vực cần tập trung quản lý tại các đô thị.
8- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 24
– Khoản 1, Điều 24 dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định giữ nguyên mức phạt tối đa đối với nhiều lĩnh vực, đồng thời bổ sung một số lĩnh vực. Có ý kiến đề nghị cân nhắc, xem xét nâng mức phạt tối đa đối với một số lĩnh vực như: lĩnh vực đối ngoại (mức phạt tối đa 30.000.000 đồng), lĩnh vực sở hữu trí tuệ (mức phạt tối đa 250.000.000 đồng), lĩnh vực an ninh trật tự, vì các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực nêu trên là những hành vi có khách thể đặc biệt, cụ thể:
+ Hành vi vi phạm trong lĩnh vực đối ngoại có thể ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, chủ quyền quốc gia.
+ Hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có thể gây ảnh hưởng cho sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta thực hiện hội nhập ngày càng sâu rộng thì yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được quan tâm.
+ Nhiều nhóm hành vi vi phạm trong lĩnh vực an ninh trật tự có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường phát triển kinh tế, xã hội, ví dụ các hành vi liên quan đến hoạt động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như đòi nợ thuê; về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ, về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm; về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại.
– Điểm c: có ý kiến đề nghị thay cụm từ “đăng ký kinh doanh” bằng cụm từ “đăng ký doanh nghiệp” để phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2014.
– Có ý kiến đề nghị điều chỉnh mức phạt tiền áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản tăng lên (có thể đến 500.000 đồng đối với cá nhân, 1.000.000 đồng đối với tổ chức) để xử phạt nhanh, kịp thời các hành vi vi phạm nhỏ.
– Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định xử phạt hành vi vi phạm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân với mức phạt tiền tối đa là 40.000.000 đồng. Vì những hành vi vi phạm trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân sẽ ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên đề xuất áp dụng mức phạt tiền tối đa theo lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bổ sung quy định này cũng phù hợp khoản 9 Điều 1, khoản 3 Điều 30 Luật Tiếp Công dân; Điều 65 Luật Tố cáo; Điều 68 Luật Khiếu nại.
9- Sửa đổi các khoản 2, khoản 3, Điều 45
– Điểm c khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 45 quy định: “có giá trị không vượt quá mức tiền phạt quy định tại điểm b điều này”, đề nghị sửa thành: “có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt quy định tại điểm b Điều này”, vì thực tế xử lý đối với các vụ việc mức tiền phạt thuộc thẩm quyền Đội trưởng nhưng phải chuyển cấp trên do vướng về thẩm quyền tịch thu tang vật. Đồng thời, đề nghị sửa đổi thầm quyền tịch thu tang vật đối với các lực lượng chức năng tương tự như lực lượng quản lý thị trường.
10- Về bổ sung Điều 45a vào sau Điều 45
Có ý kiến cho rằng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 45a dự thảo Luật chưa phù hợp với Luật Cạnh tranh. Về thẩm quyền xử lý (dự thảo Luật quy định là Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh trong khi Luật Cạnh tranh quy định là Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh). Mức phạt tiền tối đa (dự thảo Luật quy định mức tối đa là 50.000.000 đồng, trong khi Luật Cạnh tranh quy định 2 mức tối đa: 200.000.000 đồng và 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự). Đề nghị rà soát sửa đổi cho thống nhất với Luật Cạnh tranh.
11- Sửa đổi, bổ sung tiêu đề khoản 5, Điều 49
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự Bộ Quốc phòng” bằng cụm từ “Trưởng Phòng Thi hành án cấp quân khu”. Vì sửa đổi khoản 2 Điều 49 theo hướng nâng mức phạt tiền của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự lên đến 5.000.000 đồng và rất nhiều trường hợp người vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự bị phạt mức 3.000.000 đồng trở lên trong khi quy định hiện hành Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự chỉ được phạt ở mức cao nhất là 2.500.000 đồng dẫn đến việc phải chuyển lên cấp trên để ra quyết định phạt, tạo ra nhiều khó khăn trong thi hành án dân sự.
12- Sửa đổi, bổ sung Điều 58
– Khoản 1: các ý kiến góp ý như sau:
+ Không nên quy định hạn chế thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính kể từ khi phát hiện hành vi vi phạm là 24 và 48 giờ trong khoản 1, Điều 58 và thời gian chuyển biên bản trong trường hợp vụ việc vượt thẩm quyền là 24 giờ kể từ khi lập biên bản trong khoản 4, Điều 58. Quy định như dự thảo luật sẽ gây khó khăn cho người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong việc xác minh hành vi và đối tượng vi phạm cũng như công tác củng cố hồ sơ để chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt. Bên cạnh đó, sau khi có đầy đủ hồ sơ, tài liệu cần mời họp cá nhân, tổ chức để thực hiện lập biên bản vi phạm hành chính, qua đó bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan trong quá trình xử lý vi phạm hành chính. Đề nghị vấn đề này cần giao cho Chính phủ quy định chi tiết, cụ thể thời hạn lập biên bản, chuyển biên bản vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
+ Đề nghị bổ sung một Khoản quy định về việc thu hồi, lập lại biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp biên bản bị lập sai hành vi, đối tượng, mẫu…
+ Đề nghị bổ sung, quy định rõ các trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót đến mức phải hủy biên bản, thu hồi biên bản thì trình tự, thủ tục được thực hiện như thế nào và hậu quả pháp lý đối với việc thu hồi, hủy bỏ biên bản.
+ Đề nghị làm rõ “khi phát hiện vi phạm hành chính” được tính từ thời điểm nào và cách thức xác định cụ thể thời điểm này.
+ Có ý kiến đề nghị cần xem lại cụm từ “chuyển ngay” trong nội dung cuối khoản 4 Điều 58 vì “chuyển ngay” là một từ không xác định cụ thể về mặt thời gian, dễ tạo ra sự tùy tiện khi áp dụng trong thực tế.
– Khoản 2: có ý kiến đề nghị không sửa đổi, bổ sung nội dung này trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, vì thực tế thi hành quy định này của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành tại địa phương không gặp khó khăn, vướng mắc. Các trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lí do khách quan mà không ký vào biên bản hoặc trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính đều có xác nhận của đại diện chính quyền cơ sở hoặc của hai người chứng kiến.
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung: lực lượng chức năng được sử dụng thiết bị ghi hình ghi lại hình ảnh vi phạm để làm cơ sở mời tổ chức, cá nhân vi phạm xử lý sau thời gian vi phạm thực tế. Do đặc thù công tác của một số lực lượng chức năng như lực lượng Thanh tra giao thông hoạt động liên tục trong 24 giờ/ngày, còn chính quyền địa phương chỉ làm việc trong giờ hành chính nên gây khó khăn trong công tác lập biên bản vi phạm hành chính.
– Khoản 3: có ý kiến đề nghị bỏ nội dung “…nếu không có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất một người chứng kiến thì phải nêu rõ lý do trong biên bản”, vì cần thiết phải quy định mọi trường hợp lập biên bản mà người vi phạm không ký tên, điểm chỉ thì ngoài người lập biên bản phải có người khác là đại diện chính quyền cơ sở một người chứng kiến để đảm bảo tính khách quan khi lập biên bản. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 58 tập trung vào trình tự thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính. Như vậy trường hợp người vi phạm (cá nhân, tổ chức) vi phạm nhiều hành vi, thuộc nhiều lĩnh vực, từng lĩnh vực quy định người lập biên bản khác nhau thì xác định người có thẩm quyền lập biên bản như thế nào để làm căn cứ xác định địa điểm lập biên bản. Đồng thời việc xác định người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính là việc quan trọng. Nếu biên bản do người không có thẩm quyền lập thì có đủ cơ sở để ban hành quyết định xử phạt hay không. Nội dung này cần được xác định cụ thể tránh trường hợp khiếu nại, khởi kiện.
Bên cạnh đó có ý kiến đề nghị bổ sung vào đoạn cuối Khoản 3 quy định “Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan, chủ quan (có mặt nhưng không đồng ý ký biên bản vi phạm hành chính) mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất một người chứng kiến”.
+ Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể thời hạn người lập biên bản vi phạm hành chính phải thông báo để cá nhân, tổ chức vi phạm biết hành vi vi phạm hành chính bị phát hiện thông qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ.
+ Có ý kiến đề nghị bổ sung yêu cầu trong nội dung biên bản phải ghi rõ biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính , bao gồm các biện pháp được quy định tại Điều 119 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể đề nghị sửa theo hướng khi đã cho phép ghi trong biên bản vi phạm hành chính biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính thì đây cũng chính là căn cứ để thực hiện biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, không yêu cầu phải có thủ tục nào khác mới thực hiện được biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Việc yêu cầu phải có thủ tục riêng để thực hiện biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính chỉ đặt ra đối với 1 số loại biện pháp như khám nơi cất giấu, tang vật vi phạm; khám phương tiện vận tải; quản lý người nước ngoài,… chứ không phải áp dụng đối với tất cả các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính như quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
– Khoản 4 quy định: “…trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển trong thời hạn không quá 24 giờ, kể từ khi lập, đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt…”. Đề nghị sửa lại như sau“…trong thời hạn không quá 24 giờ làm việc, kể từ khi lập biên bản vi phạm hành chính,…” vì có một số trường hợp việc lập biên bản vi phạm hành chính rơi vào cuối giờ của ngày mà hôm sau là cuối tuần hoặc các ngày nghỉ lễ, tết… sẽ không đảm bảo thời gian chuyển biên bản theo quy định nêu trên.
+ Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể trong trường hợp phải gửi biên bản vi phạm hành chính như quy định tại khoản 4, Điều 58 thì thời hạn ban hành quyết định cử phạt vi phạm hành chính được tính như thế nào? Đồng thời thực tế có nhiều trường hợp không có cơ sở biết được chính xác thông tin địa chỉ liên lạc của đối tượng (do đối tượng không cung cấp, cung cấp thông tin không chính xác và người lập biên bản vi phạm hành chính không có thẩm quyền yêu cầu đối tượng xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ thể hiện địa chỉ chính xác; do đối tượng trốn tránh, không có mặt lúc lập biên bản vi phạm hành chính,…), dẫn đến không gửi được biên bản vi phạm hành chính thì cách thức xử lý đối với biên bản vi phạm hành chính như thế nào, cần phải được quy định đầy đủ.
– Khoản 5: có ý kiến đề nghị điều chỉnh như sau: “Trường hợp biên bản vi phạm hành chính không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung nêu tại khoản 3 Điều này thì phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 của Luật này để làm căn cứ ra quyết định xử phạt…”, vì tại khoản 3, Điều 58 dự thảo luật mới quy định nội dung của biên bản vi phạm hành chính.
Mặt khác có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền nói chung về việc lập biên bản vi phạm hành chính và bổ sung từ “nhiệm vụ” sau từ “công vụ” thành “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ phải kịp thời lập biên bản”.
– Khoản 6 quy định “Biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử”. Có ý kiến đề nghị cần có quy định cụ thể về nội dung này để cơ quan chức năng dễ dàng thực thi và bảo đảm tính pháp lý chặt chẽ.
13- Sửa đổi, bổ sung Điều 61
Một số ý kiến góp ý cho nội dung Điều 61 như sau:
– Đề nghị quy định giá trị tang vật để thực hiện việc giải trình (ví dụ quy định giá trị tang vật trên 50 triệu đồng). Nếu không giới hạn giá trị tang vật thì tất cả các trường hợp có tịch thu tang vật đều thuộc trường hợp giải trình. Trong thực tế có nhiều trường hợp hồ sơ đơn giản, giá trị tang vật xác định thấp.
– Kiến nghị nên quy định là áp dụng mức tiền phạt từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức, không nên quy định phải áp dụng mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó là từ 15.000.000 và 30.000.000. Vì mức tiền phạt là mức trung bình của khung tiền phạt (1/2 của mức tối đa + mức tối thiểu), nếu áp dụng mức tối đa thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải có yếu tố, tính chất tăng nặng như trong quy định tại khoản 10 Điều luật của dự thảo Luật về sửa đổi, bổ sung khoản 4, Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
– Khoản 1, Điều 61 dự thảo luật quy định: “Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền đối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức …”. Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “áp dụng” và sửa lại thành “Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc có mức đối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức …” vì cho rằng cụm từ “áp dụng” sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về những trường hợp được giải trình.
– Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 dự thảo luật, trong số các trường hợp được giải trình, có trường hợp hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định “áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức”. Có ý kiến cho rằng, quy định này có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Do đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện giải trình cho rõ ràng và cụ thể hơn để thuận lợi khi áp dụng.
– Đề nghị quy định rõ tại khoản 1, Điều 61 khi lập biên bản vi phạm hành chính thể hiện cách ghi quyền được giải trình của đối tượng vi phạm như thế nào để không gây khó khăn cho người có thẩm quyền khi lập biên bản vi phạm hành chính trong việc xác định quyền giải trình của đối tượng vi phạm để thể hiện vào trong biên bản.
– Đề nghị nên có giải thích hoặc quy định cụ thể thế nào là “tình tiết phức tạp” nhằm thống nhất cách áp dụng trong quá trình xử lý vụ việc vi phạm hành chính.
– Khoản 1 quy định: “Đối với hành vi vi phạm hành chính … thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính …”. Đối với quy định này, trong trường hợp vụ việc vượt thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính sẽ gây khó khăn cho công tác giải quyết việc giải trình. Trong trường hợp thầm quyền xử phạt là Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thì có tổ chức buổi giải trình được không? Vì vậy, có ý kiến đề nghị sửa đổi quy định thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết giải trình cho thủ trưởng trực tiếp của người lập biên bản vi phạm hành chính là phù hợp và áp dụng được trong thực tế.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng đối với những vụ mà việc tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu có giá trị nhỏ thì không cần thiết phải giải trình để thời gian xử lý hồ sơ vụ việc được rút ngắn lại. Vì vậy, ý kiến này đề nghị sửa nội dung khoản 1 như sau “ Đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 100.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức hoặc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính…”.
– Có ý kiến đề nghị đối với những hành vi vi phạm mà người vi phạm đã ký tên vào biên bản vi phạm hành chính thì không cần thiết phải quy định việc giải trình.
– Khoản 2, Điều 61 quy định “thời hạn không quá 05 ngày” là chưa đầy đủ, đề nghị sửa lại như sau “thời hạn không quá 03 ngày làm việc”.
– Dự thảo Luật sử dụng nhiều cách diễn đạt về thời hạn nhưng có cùng nghĩa, như: “thời hạn là…” (Điểm a, khoản 1, Điều 66; khoản 8, Điều 125); “thời hạn không quá…” (khoản 2, Điều 76; khoản 3, Điều 122); “thời hạn không được quá...” (khoản 3, Điều 122; khoản 3, Điều 125); “thời hạn tối đa là…” (Điểm c, khoản 1, Điều 66); “thời hạn tối đa không quá…” (khoản 3, Điều 125); “trong thời hạn…” (khoản 2, Điều 76; khoản 2, Điều 77). Đề nghị xem xét, sử dụng cách diễn đạt thống nhất trong nội dung dự thảo Luật.
14- Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 và 2 Điều 63
– Có ý kiến cho rằng, để bảo đảm rõ ràng, chặt chẽ trong việc xử lý các hồ sơ có liên quan đến các cơ quan tiến hành tố tụng, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 cụm từ “do tiếp nhận từ các cơ quan quản lý nhà nước”, cụ thể sửa lại như sau: “Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết do tiếp nhận từ các cơ quan quản lý nhà nước hoặc trực tiếp phát hiện vi phạm, …” để khắc phục hạn chế ở Điều 63 Luật hiện hành, vì có ý kiến cho rằng Điều 63 Luật hiện hành chỉ áp dụng đối với những vụ việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật, không áp dụng cho các trường hợp vụ việc do các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện vi phạm nhưng có dấu hiệu vi phạm hình sự và chuyển các cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét xử lý hình sự theo quy định tại Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
– Theo quy định tại khoản 1, Điều 63 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt, nhưng theo quy định tại Khoản 3, Điều 62 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển trả hồ sơ cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến. Do đó, đề nghị sửa nội dung quy định về cơ quan nhận hồ sơ để xem xét xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1, Điều 63 và khoản 3, Điều 62 cho thống nhất, theo hướng như quy định tại khoản 1, Điều 63, tức là hồ sơ sẽ được chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt.
15- Sửa đổi, bổ sung Điều 64
Có ý kiến đề nghị bổ sung việc sử dụng các thông tin từ camera hoặc thiết bị công nghệ để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội vì hiện nay trên các tuyến đường, hẻm tại nhiều địa phương trên cả nước, thang máy của tòa nhà cao tầng, các điểm kinh doanh và các hộ dân đã trang bị thiết bị ghi hình camera) để bảo vệ an ninh. Các thông tin từ các camera này đã giúp ích rất lớn cho các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vụ việc gây mất an ninh, an toàn xã hội.
16- Sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 65
– Có 01 ý kiến đề nghị sửa nội dung khoản 2 như sau: “Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc hậu quả đối với hành vi vi phạm nếu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm xuất khẩu, nhập khẩu, cấm kinh doanh, cấm lưu hành, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự giao thông, xây dựng, đất đai và an ninh trật tự, an toàn xã hội hoặc trong trường hợp pháp luật có quy định về việc áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính.
Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật, phương tiện bị tịch thu; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện”.
– 01 ý kiến khác đề nghị sửa quy định tại khoản 2 như sau: “Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.
Trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội trốn thuế để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này thì người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định.
Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật bị tịch thu, tiêu hủy; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện”
17- Sửa đổi, bổ sung Điều 66
– Có ý kiến đề nghị nghị quy định thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt là 30 ngày chứ không chỉ có 10 ngày như dự thảo luật, vì nhiều trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt là cơ quan ở Trung ương, cơ quan đóng ở địa bàn khác tỉnh, …; đồng thời, khi tiếp nhận hồ sơ thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt cần có thời gian xem xét lại hồ sơ vụ việc vi phạm trước khi ban hành quyết định xử phạt.
– Có ý kiến cho rằng số ngày của các tháng có thể chênh lệch nhau (tháng có 30 ngày hoặc tháng có 31 ngày). Vì vậy, đề nghị sửa nội dung điểm b, điểm c khoản 1 Điều 66 như sau:
“b) Đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình quy định tại khoản 1 Điều 61 của Luật này hoặc phải xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản;
c) Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 60 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản”
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 66 nội dung dung quy định “Giao Chính phủ quy định cụ thể về trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp” để tránh tùy tiện trong việc kéo dài thời hạn ra quyết định xử phạt.
Mặt khác, có ý kiến cho rằng cần xem xét giữ nguyên nội dung tại khoản 2 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Quá thời hạn quy định tại khoản l Điều này hoặc khoản 3 Điều 63 của Luật này, người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng vẫn quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này, quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu huỷ tang vật vì phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành…”. Vì đối với các công trình xây dựng sai phép, không phép cần áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục hiện trạng ban đầu để đảm bảo trật tự xây dựng; nếu bỏ quy định này không có cơ sở áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quá thời hạn xử phạt vi phạm hành chính.
18- Sửa đổi, bổ sung Điều 68
Có ý kiến cho rằng, dự thảo luật bổ sung cụm từ “họ tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của tổ chức vi phạm” vào cuối điểm đ khoản 1 Điều 68, tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về dân sự, bên cạnh đại diện theo pháp luật của tổ chức thì còn có đại diện theo ủy quyền. Vì vậy, để đồng bộ và phù hợp với các quy định pháp luật khác, đề nghị bổ sung quy định đại diện của tổ chức bao gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
19- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 71
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể chuyển hoặc không chuyển tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu vì nếu quy định “có thể” sẽ có vướng mắc về cơ quan, người ra quyết định xử lý khi xử lý tang vật phương tiện.
20- Sửa đổi, bổ sung Điều 76
– Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung những trường hợp được xem là khó khăn về kinh tế để được tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhằm bảo đảm tính khả thi (Ví dụ: cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thất nghiệp, không có thu nhập ổn định; tổ chức bị phá sản, …).
– Điểm a khoản 1 quy định “Bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 100.000.000 đồng đối với tổ chức” như vậy điều kiện được hoãn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính của tổ chức gấp 50 lần so với cá nhân là chưa phù hợp với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại điểm 2 khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đề nghị cần xem xét lại quy định này cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Khoản 3: có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định tại khoản 3 Điều 76 để phù hợp với khoản 6 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Vì dự thảo Luật có sửa đổi, bổ sung Điều 76 về hoãn thi hành án phạt tiền, theo đó khoản 3 Điều 76 về cơ bản giữ nguyên nội dung của quy định hiện hành (chỉ bổ sung thêm “tổ chức” sau “cá nhân”). Việc quy định cá nhân, tổ chức được tạm hoãn chấp hành quyết định xử phạt được nhận lại giấy tờ, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đang bị tạm giữ có dấu hiệu mâu thuẫn với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 125 (việc tạm giữ giấy phép là để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt) và khoản 6 Điều 125 (trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử phạt có quyền tạm giữ một trong các loại giấy tờ theo thứ tự: giấy phép lái xe hoặc giấy phép lưu hành phương tiện hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan đến tang vật, phương tiện cho đến khi cá nhân, tổ chức đó chấp hành xong quyết định xử phạt. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không có giấy tờ nói trên, thì người có thẩm quyền xử phạt có thể tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 10 Điều này).
21- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 86 và bổ sung các điểm đ và e vào sau điểm d khoản 2, Điều 86
Điểm a, khoản 1 Điều 86 dự thảo luật quy định: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 73 của Luật này”. Tuy nhiên, đối với trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khởi kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính ra toà hành chính thì người có thẩm quyền không thể ra quyết định cưỡng chế cũng như quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt, do khoản 3, Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định “người giải quyết khiếu nại, khởi kiện phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt nếu xét thấy việc thi hành quyết định xử phạt hành chính bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục”, trong trường hợp này người giải quyết đơn khởi kiện không phải là người ra quyết định xử phạt mà là thẩm phán thụ lý vụ án hành chính. Đồng thời, việc thụ lý vụ án hành chính thường kéo dài, ảnh hưởng đến thời hạn thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, kiến nghị bổ sung quy định về việc không tính thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính với trường hợp trên, cụ thể bổ sung quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính như sau: “d) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt, hoặc thời gian đình chỉ việc thi hành do giải quyết khiếu nại, khiếu kiện thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt, hoặc có quyết định giải quyết khiếu nại, khiếu kiện”.
– Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung điểm đ vào khoản 2 Điều 86 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính “Ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước tại địa điểm vi phạm đối với cá nhân, tổ chức xây dựng, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vi phạm”, biện pháp này được áp dụng với cá nhân, tổ chức khi họ vi phạm hành chính trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước vì hiện nay, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính không đạt kết quả nhất là trên lĩnh vực môi trường, xây dựng. Nếu ngừng cung cấp điện nước thì có thể ngưng ngay hành vi vi phạm.
– Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn” (điểm e khoản 2 Điều 86). Tuy nhiên, cũng có ý kiến thống nhất việc bổ sung biện pháp “Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn” và đề nghị bổ sung biện pháp này vào các điều liên quan, như điều 25 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn.
– Có ý kiến cho rằng việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế theo thứ tự quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính sẽ gây nhiều khó khăn cho công tác cưỡng chế. Ví dụ như biện pháp “khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm”. Tài liệu thông tin tài khoản của khách hàng là tài liệu mật của ngân hàng, việc đề nghị cung cấp thông tin này phức tạp. Ý kiến này đề nghị sửa đổi theo hướng quy định cho phép lựa chọn các biện pháp cưỡng chế hành chính theo quy định phù hợp với từng trường hợp cụ thể thay vì phải áp dụng lần lượt theo thứ tự.
22- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, bổ sung khoản 2a vào sau khoản 2, Điều 88
– Có ý kiến đề nghị bỏ từ “khoản 1” trong nội dung khoản 2a Điều 88 vì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt bao gồm cả khoản 1 và 2 Điều 74.
– Mặt khác có ý kiến đề nghị sửa lại khoản 1 như sau:
“Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người ra quyết định phải gửi quyết định đến cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế, cơ quan, tổ chức thực hiện cưỡng chế và cá nhân, tổ chức có liên quan.
Quyết định cưỡng chế được giao trực tiếp cho cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế. Trường hợp quyết định được giao trực tiếp mà cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận quyết định thì người có thẩm quyền lập biên bản về việc không nhận quyết định có xác nhận của chính quyền địa phương và được coi là quyết định đã được giao. Quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành ngay, kể từ ngày cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế được giao quyết định cưỡng chế hoặc ngày được coi là quyết định cưỡng chế đã được giao.
Quyết định cưỡng chế được gửi cho các cá nhân, tổ chức liên quan qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm.
Người ra quyết định cưỡng chế tổ chức thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt của mình và của cấp dưới”
Vì nội dung bổ sung của khoản 1, Điều 88 như dự thảo Luật chưa tạo thuận lợi cho công tác cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Khi chọn thời điểm quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành ngay, kể từ ngày cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế nhận được quyết định cưỡng chế, thì việc gửi quyết định cưỡng chế cho các cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế quy định cần hạn chế ở một hình thức là giao trực tiếp đến cá nhân, tổ chức vi phạm để thể hiện tính răn đe. Hình thức giao qua bưu điện, theo Điều 70, đòi hỏi giao bằng hình thức bảo đảm, nếu sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định đã được gửi qua đường bưu điện đến lần thứ ba mà bị trả lại do cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận mới xử lý tiếp là quá chậm, mất thời gian, công sức của các cơ quan chức năng một cách không cần thiết. Đối với các tổ chức, cá nhân liên quan (trừ cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế) có thể gửi qua đường bưu điện.
23- Sửa đổi điểm c khoản 3, Điều 88
Có ý kiến cho rằng để tạo sự thống nhất trong nội dung quy định của điểm c khoản 3 Điều 88, đề nghị bổ sung cụm từ “kho bạc nhà nước” vào sau “tổ chức tín dụng”. Điểm c viết lại như sau: “…kể từ khi người có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước cung cấp thông tin…”.
24- Bổ sung các khoản 3, 4 và 5, bổ sung khoản 5a vào sau khoản 5, bổ sung khoản 7 vào sau khoản 6, Điều 90
Điểm c khoản 4, Điều 90 quy định “Sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ 3 và có nơi cư trú ổn định; trường hợp không có nơi cư trú ổn định thì áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm d khoản 1, Điều 94 của Luật này” (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 không quy định số lần vi phạm). Tuy nhiên, nếu quy định vi phạm lần thứ 3 mới bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý của địa phương và không có tính răn đe đối với người vi phạm. Do đó, có ý kiến đề nghị giữ nguyên nội dung trên theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm c khoản 4, Điều 90 thì trường hợp không có nơi cư trú ổn định nếu chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là chưa phù hợp. Vì nếu người không có nơi cư trú ổn định sử dụng trái phép chất ma túy mà được xác định là người nghiện ma túy thì không đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, đề nghị bổ sung cụm từ: “hoặc khoản 1 Điều 96 của Luật này” vào cuối nội dung điểm c khoản 4 Điều 90 dự thảo Luật.
– Có ý kiến đề nghị cân nhắc về tính hiệu quả của biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn đối với người nghiện ma túy; cần nghiên cứu giảm số lần lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của đối tượng khi áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn đối với người nghiện ma túy là hình thức giáo dục, quản lý người nghiện. Tuy nhiên, đối với người nghiện ma túy thì cần phải kịp thời tổ chức cho họ cai nghiện thì mới hiệu quả, hạn chế những hệ lụy cho xã hội.
– Khoản 5, Điều 90 dự thảo luật quy định: “5. người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi trở lên đến dưới 18 có nơi cư trú ổn định”. Có ý kiến đề nghị cần quy định thống nhất việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là người sử dụng trái phép chất ma túy hay là người nghiện ma túy. Vì điểm c, khoản 54, Điều 1 dự thảo luật quy định theo hướng xác định hành vi vi phạm sử dụng trái phép của đối tượng, số lần lập biên bản về hành vi vi phạm để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhưng tại khoản 5, Điều 90 chỉ quy định về việc xác định người nghiện ma tuý để xử lý.
25- Bổ sung Khoản 4a vào sau khoản 4, Điều 92
Khoản 4a, Điều 92 dự thảo luật quy định: “4a. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi trong thời hạn 06 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ ba và không có nơi cư trú ổn định”.
Có ý kiến cho rằng, để không mâu thuẫn với điểm 1a Khoản 57 Điều 1 của Dự thảo luật sửa đổi Điều 96 về quy định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đề nghị sửa khoản 4a, Điều 92 lại như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi trong thời hạn 06 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ ba mà không xác định được tình trạng nghiện và không có nơi cư trú ổn định”.
26- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 94
Điểm d khoản 1, Điều 94 dự thảo luật quy định:“Trong thời hạn 06 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ ba và không có nơi cư trú ổn định”. Có ý kiến cho rằng, để không mâu thuẩn với điểm 1a, khoản 57, Điều 1 dự thảo luật sửa đổi Điều 96 về quy định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đề nghị sửa điểm d khoản 1, Điều 94 lại như sau: “Trong thời hạn 06 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ ba mà không xác định được tình trạng nghiện và không có nơi cư trú ổn định”
27- Sửa đổi khoản 1, bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1, Điều 96
Khoản 1 Điều 96 dự thảo luật quy định: “1. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên”. Có ý kiến đề nghị nên xem xét lại tính khả thi việc thực hiện quy định. Hiện nay, không có quy định điều kiện “đã giáo dục tại xã, phường, thị trấn” trước khi đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời theo quy định sửa đổi lần này về thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn còn rườm rà vì đối tượng vi phạm nhiều lần mới áp dụng được, đồng thời biện pháp này chỉ quản lý, giáo dục mà không tổ chức thực hiện cai nghiện thì hiệu quả sẽ không cao.
– Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ về thẩm quyền, trình tự thủ tục để đưa người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện. Đồng thời, cần phải xem xét quy định điều kiện về “đã áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện thì đưa đi cai nghiện với đối tượng này” để thống nhất quan điểm, cách làm là khi cơ quan chức năng phát hiện người sử dụng ma túy thì cơ quan chức năng có nhiệm vụ chứng minh số lần vi phạm hay là chứng minh người nghiện để đưa đi cai nghiện.
– Có ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 96 dự thảo luật về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng xác định hành vi, số lần vi phạm của đối tượng để áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện. Hiện nay, việc xác định tình trạng nghiện của người nghiện rất khó khăn, có nhiều loại ma túy không xác định được tình trạng nghiện, kể cả ma túy truyền thống như bồ đà, cần sa và các loại ma túy mới như cỏ mỹ, tổng hợp.. và các tiêu chuẩn xác định tình trạng nghiện hiện nay cũng mang tính định tính, khó thực hiện. Do đó cần nghiên cứu xem xét theo hướng xác định hành vi vi phạm của đối tượng, số lần vi phạm làm cơ sở áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện để các cơ quan chức năng dễ thực hiện.
28- Sửa đổi, bổ sung Khoản 1, Điều 98
Khoản 1, Điều 98 dự thảo luật quy định: “1. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức và chủ trì cuộc họp tư vấn với sự tham gia của Trưởng Công an cấp xã, công chức tư pháp….. Người bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đại diện của họ, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên phải được mời tham gia cuộc họp và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện pháp”.
Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể trường hợp đối tượng được mời tham gia nhưng không tham gia hoặc tham gia nhưng không phát biểu ý kiến của minh về việc áp dụng biện pháp. Thực tiễn cho thấy hiện nay có nhiều trường hợp không tham gia, không phát biểu tại cuộc họp gây lúng túng, khó khăn cho cơ quan chức năng, dẫn đế việc mỗi nơi làm một cách không thống nhất.
29- Sửa đổi, bổ sung Điều 103
Có ý kiến đề nghị xem lại điểm a, b, đ khoản 1 Điều 103 quy định thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trong xác minh, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ; khoản 1 Điều 10 và Mẫu số 02, 05 Thông tư số 05/2018/TT-BCA ngày 07/02/2018 của Bộ Công an lại quy định thẩm quyền của Trưởng công an xã trong việc xác minh, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy.
Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại khoản 57, Điều 1 dự thảo luật về sửa đổi Khoản 1 của Điều 96 quy định:“1. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên”. Quy định này đã bỏ quy định về điều kiện nơi cư trú, cũng như điều kiện về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trước khi đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên không cần quy định việc xác định nơi cư trú, cũng như Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú lập hồ sơ đề nghị. Đồng thời, trong thực tiễn hiện nay các cơ quan chức năng gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém trong việc thực hiện quy định “trường hợp xác định được nơi cư trú ổn định thì có trách nhiệm chuyển người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương xử lý”. Do đó, đề nghị chỉ quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Cơ quan công an cấp huyện hoặc cơ quan công an cấp tỉnh nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; không cần quy định về việc xác minh nơi cư trú của đối tượng.
30- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 104
Có ý kiến đề nghị quy định theo hướng tăng thời hạn từ quá trình nhận hồ sơ, bổ sung hồ sơ và chuyển hồ sơ kể từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung, cụ thể:
“1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ quy định tại Điều 103 của Luật này, Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; nếu hồ sơ chưa bảo đảm yêu cầu theo quy định pháp luật thì chuyển lại cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ.
Thời hạn để cơ quan đã lập hồ sơ tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ là 04 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu bổ sung hồ sơ.
Thời hạn để Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.”
Vì hiện nay công chức phụ trách công tác này tại Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác, ngoài ra còn phải tham dự các phiên họp đưa người vào cơ sở cai nghiện do Tòa án mở, do vậy thời gian giải quyết như dự thảo Luật nêu trên không đảm bảo để thực hiện và việc cơ quan tham mưu đã lập hồ sơ (Công an) tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung đối với những trường hợp đối tượng có nơi cư trú xa thì việc xác minh trong thời gian 02 ngày làm việc là không đảm bảo.
31- Sửa đổi, bổ sung các khoản 1 và khoản 3, Điều 122
– Có ý kiến đề nghị xem lại quy định “Việc tạm giữ người chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác. Thời hạn tạm giữ không được quá 12 giờ, trong trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không được quá 24 giờ”.Ý kiến này đề nghị tăng thời hạn tạm giữ người trong trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không được quá 72 giờ vì trong thực tế xảy ra nhiều trường hợp người vi phạm có hành vi tàng trữ, vận chuyển các chất nghi là ma túy, vật liệu nổ, đồ cổ, động vật hoang dã quý hiếm… cần phải có đủ thời gian để giám định về khối lượng, chất lượng…và xác minh nhân thân, lý lịch (đối với người không có giấy tờ tùy thân, nhất là người ở địa phương khác). Nếu chưa có thông tin về nhân thân, chưa có kết luận giám định chuyên môn mà đã hết thời gian tạm giữ theo quy định thì gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm của cơ quan giám định, người tiến hành giám định, thời gian trả kết quả giám định, trách nhiệm của các cơ quan có trách nhiệm trả lời xác minh nhân thân của đối tượng vi phạm tương ứng với thời gian được tạm giữ người.
– Khoản 3, Điều 122 dự thảo luật quy định:“Đối với trường hợp tạm giữ để xác định tình trạng nghiện ma túy thì thời hạn tạm giữ không quá 72 giờ, kề từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc quản lý người nghiện để cơ quan y tế tiến hành xác định tình trạng nghiện ma túy cho người nghiện. Lý do: hiện không có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc tạm giữ để các cơ quan y tế tiến hành xác định tình trạng nghiện.
32- Sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 123
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định người có thẩm quyền lập biên bản thì có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong thời hạn 24 giờ, sau đó trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm giữ thì chuyển đến người có thẩm quyền ban hành quyết định gia hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
33- Sửa đổi, bổ sung Điều 125
– Có ý kiến cho rằng, để bảo đảm tính khả thi của việc áp dụng biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng đúng yêu cầu, mục đích, tính chất của việc tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 125 theo hướng không quy định thủ tục riêng về việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính nếu ngay tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền lập lập biên bản vi phạm hành chính đã ghi nhận nội dung này trong lập biên bản vi phạm hành chính. Chỉ quy định thủ tục riêng về việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính trong trường hợp lập biên bản vi phạm hành chính không áp dụng nhưng sau đó người có thẩm quyền nhận thấy cần áp dụng, đồng thời, mở rộng chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định tạm giữ là người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.
– Điều 125 quy định: “Mọi trường hợp tạm giữ tang vật, phương tiện, giây phép, chứng chỉ hành nghề phải được lập thành biên bản”. Tuy nhiên, theo mẫu Biên bản số 07 (ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ) thì phải có Quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề mới được lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Quy định này gây khó khăn trong quá trình thi hành biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vì thực tế trong quá trình phát hiện vi phạm hành chính. Có ý kiến đề nghị cần phải quy định theo hướng ban hành Quyết định tạm giữ trước rồi lập biên bản tạm giữ sau.
– Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung giao quyền cho cấp phó được tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở vào khoản 3, Điều 125 và khoản 2, Điều 129.
34- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 126
Khoản 1 Điều 126 quy định “…Đối với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách Nhà nước”.
Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể hơn vì trong thực tế khó áp dụng quy định này.
35- Sửa đổi bổ sung Khoản 2, Điều 131
Khoản 2, Điều 131 dự thảo luật quy định:“Đối tượng vi phạm bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì giao cho cơ sở cai nghiện của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý “.
Có ý kiến đề nghị sửa đổi như sau: “Đối tượng vi phạm bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì giao cho cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc cơ sở xã hội của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý ”.Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định: Giao cho Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện và nội dung cần thiết trong quản lý các đối tượng theo quy định này, do Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội và Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ chưa có quy định hướng dẫn cụ thể để địa phương thống nhất thực hiện đến nay.
36- Về bãi bỏ một số điều, khoản, nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính
36.1- Bãi bỏ Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính: có ý kiến đề xuất 2 phương án như sau:
– Phương án 1: Giữ lại Điều 82 về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nghĩa là bỏ khoản 4 Điều 3 Dự thảo, nhưng nội dung của Điều 82 cần quy định gọn lại theo hướng viện dẫn luật khác. Đề xuất nội dung của Điều 82 như sau: “Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu là tài sản bị tịch thu, được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý đối với tài sản bị tịch thu thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công”. Thực hiện phương án này thì không phải sửa đổi, bổ sung Điều 26.
– Phương án 2: Nếu chọn bãi bỏ Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính như khoản 4 Điều 3 Dự thảo quy định thì phải bổ sung 1 khoản tại Điều 1 Dự thảo để sửa đổi, bổ sung Điều 26. Đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 26 như sau:
“Điều 26. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
1. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức.
2. Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu là tài sản bị tịch thu, được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật. Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.”
Vì việc bãi bỏ hoàn toàn Điều 82 sẽ phá vỡ tính hệ thống, logic của Luật Xử lý vi phạm hành chính vì Điều 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính có viện dẫn đến Điều 82 (mà Dự thảo hoàn toàn không sửa đổi, bổ sung Điều 26). Điều 81 đã quy định về thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu không có 1 Điều quy định về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu thì về mặt hình thức Luật thiếu toàn diện, có thể gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế, dễ dẫn đến nhận định Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định nên không có cơ sở pháp lý để giải quyết các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu.
36.2- Bãi bỏ khoản 2, Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính:
Có ý kiến đề nghị không bãi bỏ khoản 2, Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, vì đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 khi phạm các tội quy định tại khoản 2, Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý). Như vậy, nếu phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý thì không bị điều chỉnh bởi Bộ luật Hình sự năm 2015 nên cần giữ lại quy định tại khoản 2, Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tuy nhiên, cần bổ sung quy định loại trừ để tránh bị chồng chéo, mâu thuẫn với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự”.
36.3– Về việc đọc hồ sơ của đối tượng bị lập hồ sơ trong quy trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính:
Có ý kiến cho rằng, trong quy trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính được sửa đổi, bổ sung tại các Khoản 59, 61, 62, 63, 64, 65 Điều 1 Dự thảo luật có đề cập đến việc thông báo và dành thời gian cho đối tượng đọc hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với chính mình. Đề nghị xem xét bỏ nội dung này không đưa vào quy trình lập hồ sơ, vì các lý do sau:
– Làm kéo dài thời gian lập hồ sơ trong khi thời hạn lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính ngắn;
– Không làm rõ được ý nghĩa của việc thực hiện bước này trong quy trình lập hồ sơ trong khi nếu không đồng ý với việc bị áp dụng biện pháp thì người bị áp dụng có quyền đề nghị các cơ quan xem xét lại quyết định thông qua thủ tục khiếu nại hoặc quy trình tố tụng;
– Việc thông báo làm phát sinh thêm nhiều chi phí, thủ tục truy tìm đối tượng vì các đối tượng bỏ trốn, đi khỏi địa phương ngay khi biết việc bị lập hồ sơ, làm giảm hiệu quả, hiệu lực của việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
III- GÓP Ý CHO MỘT SỐ ĐIỀU KHOẢN KHÁC CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2012
1- Một số ý kiến cho rằng, nhiều quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 còn mang tính định tính nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể, do đó gây khó khăn cho việc áp dụng như: vi phạm hành chính “có quy mô lớn” (Khoản 1 Điều 10); vụ việc “có nhiều tình tiết phức tạp”, vụ việc “ đặc biệt nghiêm trọng” (Khoản 1, Điều 66); xác định “Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra” (Khoản 6 Điều 9); “vi phạm hành chính nghiêm trọng” (Điều 26); “người già yếu” vi phạm hành chính (Khoản 5 Điều 9); vi phạm hành chính “gây hậu quả lớn” (Điều 72); hành vi “Côn đồ hung hãn” (Khoản 2 Điều 118); “vi phạm nghiêm trọng” các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề (Điều 25). Đề nghị nghiên cứu sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng luật.
2- Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
– Có ý kiến đề nghị bổ sung “người được uỷ quyền theo quy định của pháp luật” vào khái niệm “người đại diện hợp pháp” quy định tại khoản 17, Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
3- Về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính (Điều 3)
– Nhiều ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định “Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần”. Trong khi đó tại Điểm b Khoản 1, Điều 10 của Luật quy định tình tiết tăng nặng là “vi phạm hành chính nhiều lần, tái phạm”. Quy định nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính như trên là thiếu rõ ràng, thiếu thống nhất; gây ra lúng túng, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Với những hành vi vi phạm hành chính lặp lại nhiều lần, tại nhiều thời điểm khác nhau thì áp dụng theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 10 coi đó là tình tiết tăng nặng hay xử phạt theo từng thời điểm xảy ra vi phạm theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc xử phạt nói chung theo hướng quy định cụ thể, rõ ràng, tránh dẫn đến những cách hiểu, diễn giải khác nhau, quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện được các nguyên tắc được Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định.
– Có ý kiến đề nghị cần bổ sung hướng dẫn cụ thể nguyên tắc “Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính” để tránh trường hợp đối tượng vi phạm lợi dụng nguyên tắc này gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền, cho người có thẩm quyền trong việc xử phạt vi phạm hành chính.
4- Về thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (Điều 4)
Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định:“Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính.”. Theo đó chỉ Chính phủ mới có thẩm quyền quy định hành vi nào là hành vi vi phạm, hình thức phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, mỗi địa phương có những đặc thù riêng do điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, quy mô và đặc điểm dân số, điều kiện thiên nhiên,… do đó, các hành vi vi phạm cũng khác nhau, tính chất, mức độ của các hành vi vi phạm khác nhau,… nhưng chưa được quy định cụ thể trong các nghị định xử phạt vi phạm hành chính, không xử lý được triệt để gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến hoạt động quản lý chung tại địa phương.
Bên cạnh đó, thẩm quyền xử phạt, bao gồm cả thẩm quyền áp dụng hình thức phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả, không thay đổi được do đã quy định trong luật, dẫn đến nhiều trường hợp hành vi vi phạm đơn giản, mức phạt tiền thấp nhưng vẫn phải chuyển cho các cơ quan cấp trên, đặc biệt là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh xử lý,… dẫn đến việc không bảo đảm tính kịp thời, toàn diện trong xử lý, gây khó khăn cho công tác quản lý ở cơ sở; gây áp lực giải quyết công việc sự vụ cho các cơ quan cấp trên một cách không cần thiết; không tương xứng với thẩm quyền và trách nhiệm quản lý ở cơ sở, …
Do đó, có ý kiến đề nghị cần mở rộng và phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương trong việc quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả,…
– Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản để bỏ cụm từ ở cuối Điều 4 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về quyền hạn của Chính phủ “quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính” để phù hợp với việc chuyển giao Bộ Tư pháp “Ban hành, quản lý thống nhất mẫu biên bản, quyết định sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính” được quy định tại khoản 6 Điều 1 của dự thảo Luật.
5- Về đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính (Điều 5)
– Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm đối tượng xử lý vi phạm hành chính là “Hộ kinh doanh” vào nhóm đối tượng là cá nhân để thuận tiện trong việc áp dụng chế tài xử lý vi phạm hành chính
– Điểm c Khoản 1, Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.”.
Có ý kiến cho rằng, Luật chưa có điều khoản nào quy định, hướng dẫn trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với người nước ngoài. Do đó, đề nghị bổ sung quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với người nước ngoài.
6- Về tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (Điều 26)
Các ý kiến đề nghị:
– Các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính phải có giới hạn về thẩm quyền tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm hành chính trên cơ sở chức danh và thẩm quyền của cơ quan xử lý vi phạm hành chính.
– Các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính phải có giới hạn giá trị tang vật, giá trị phương tiện vi phạm hành chính tương ứng với thẩm quyền tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm hành chính; cần quy định giới hạn tối đa về giá trị tang vật và phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Trong trường hợp vượt quá giá trị tối đa này, vấn đề sẽ được giải quyết tại Tòa hành chính về việc tịch thu tang vật và phương tiện (quy định này đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung thẩm quyền của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính).
– Cần tham khảo Điều 45 Bộ Luật hình sự vì theo Điều 45 Bộ Luật hình sự tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước. Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống, thực tế đã có những trường hợp, sau khi tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm hành chính, người vi phạm hành chính và gia đình họ không còn điều kiện sinh sống. Vấn đề này cần được quan tâm, xem xét thấu đáo để quyền sở hữu đối với tài sản của người vi phạm hành chính được bảo vệ theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật của Bộ Luật dân sự.
7- Về các biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng (Điều 28)
Điểm b, Khoản 1, Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng…”. Tuy nhiên, Điều 118 Luật Xây dựng năm 2014 lại sử dụng từ “phá dỡ công trình”. Do đó, đề nghị sửa đổi tạo sự sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, tránh bị khiếu nại khi áp dụng.
8- Về buộc tiêu huỷ hàng hoá, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm có nội dung độc hại (Điều 33)
Điều 33 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “…Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện”. Tại khoản 2, Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có trách nhiệm thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định theo quy định của pháp luật và phải chịu mọi chi phí cho việc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đó”.
Có ý kiến cho rằng, trong thực tế có nhiều trường hợp các đối tượng vi phạm buộc khắc phục hậu quả là người dân tạm trú, khi bị kiểm tra xử lý đã bỏ địa phương đi nơi khác, cơ quan Công an tiến hành xác minh tại nơi có hộ khẩu thường trú thì cơ quan có thẩm quyền trả lời là không có mặt tại địa phương nên việc tiến hành xử lý tang vật gặp nhiều khó khăn do không có nguồn kinh phí. Do đó, đối với các trường hợp xử lý tiêu hủy tang vật phương tiện trên đề nghị chi từ nguồn ngân sách nhà nước.
9- Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (Chương II, Phần thứ hai)
Một số ý kiến cho rằng, theo các quy định tại Chương II Phần thứ hai Luật Xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền áp dụng hình thức phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả đối với nhiều chức danh được tính theo tỷ lệ phần trăm mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng nhưng lại bị giới hạn bởi mức trần cố định, dẫn đến thẩm quyền xử phạt của nhiều chức danh thấp, không tương xứng với trách nhiệm, vai trò quản lý ở địa phương, đặc biệt là các chức danh có thẩm quyền phạt chung như Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; hoặc các chức danh có thẩm quyền phạt đa ngành, đa lĩnh vực như ngành công an, quản lý thị trường,… Bên cạnh đó, quá trình sửa đổi, bổ sung các nghị định xử phạt vi phạm hành chính đều có xu hướng tăng mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm. Điều này dẫn đến thực tế là số lượng các hành vi mà các chức danh quản lý ở cơ sở có thẩm quyền xử phạt ngày càng ít đi, trong khi đó các hành vi vi phạm đơn giản, diễn ra phổ biến ở địa bàn (như hành vi vứt, thải rác thải sinh hoạt trên vỉa hè, đường phố hoặc vào hệ thống thoát nước thải đô thị; hành vi xây dựng nhà ở riêng lẻ không phép; hành vi không đăng ký nghĩa vụ quân sự lần đầu;…) vượt quá thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, phải chuyển các cơ quan có thẩm quyền cấp trên, không đảm bảo tính kịp thời trong việc xử phạt. Do đó, đề nghị nghiên cứu tăng mức tiền phạt tối đa trong các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ, hôn nhân gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình như nêu trên, đồng thời bỏ việc quy định thẩm quyền xử phạt xác định theo mức trần cố định tiền phạt.
10-
Về
t
hẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
(Điều 38
)
Có ý kiến đề nghị điều chỉnh thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn được quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành chính từ mức “không quá 5.000.000 đồng” thành “không quá 10.000.000 đồng”, vì hiện nay mức phạt 5.000.000 đối đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn không đảm báo tính răn đe, giáo dục đối với người vi phạm hành chính.
11- Về thẩm quyền của Bộ đội biên phòng (Điều 40)
– Có ý kiến đề nghị không quy định giới hạn thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng. Đồng thời, bổ sung thẩm quyền được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm d khoản 1, Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện” đối với chức danh Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, thành phố của lực lượng Bộ đội Biên phòng.
12- Về thẩm quyền của Thanh tra (Điều 46)
Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với Đội trưởng Đội Thanh tra chuyên ngành để phù hợp với Nghị định về Thanh tra chuyên ngành Giao thông vận tải.
13- Về giao quyền xử phạt (Điều 54)
Có ý kiến cho rằng, Luật Xử lý vi phạm hành chính mới chỉ đề cập đến việc giao quyền trong xử phạt vi phạm hành chính mà chưa đề cập đến việc giao quyền trong việc thực hiện các thẩm quyền về xử lý vi phạm hành chính, do đó, đề nghị bổ sung cho đồng bộ và thuận lợi trong việc áp dụng các quy định về xử lý hành chính.
14- Về xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt (Điều 60)
– Một số ý kiến cho rằng, Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ mới quy định xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt nhưng thiếu quy định xác định giá trị phương tiện vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định thẩm quyền xử phạt theo quy định. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung xác định giá trị phương tiện vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt.
– Có ý kiến đề nghị bổ sung căn cứ để xác định giá trị tài sản quy định tại khoản 2, Điều 60 như sau: kết quả định giá tài sản của cơ quan bảo hiểm (đối với xác định thiệt hại vụ cháy), vì nhiều trường hợp cơ sở bắt buộc phải mua bảo hiểm cháy nổ đã có định giá tài sản trước đó.
– Khoản 3: có ý kiến đề nghị tăng thời gian tạm giữ đảm bảo thống nhất thời gian tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; đồng thời để đảm bảo thời gian, quy trình thành lập Hội đồng định giá và thực hiện việc định giá tài sản. Vì khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính và khoản 1 Điều 6 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện để xác định giá trị không quá 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ, trong trường hợp thật cần thiết thì thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 24 giờ”. Tuy nhiên, Điều 125 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 07 ngày làm việc, kể từ ngày tạm giữ…”; nếu lập biên bản xử phạt hành chính và biên bản tạm giữ cùng lúc thì việc tính thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện không thống nhất vì nếu áp dụng theo khoản 3, Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện tối đa là 72 giờ (03 ngày); nếu áp dụng Điều 125 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính là 07 ngày làm việc.
15- Về chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính (Điều 63)
Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định:
“1. Đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển các quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
2. Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến.
Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt tiến hành xác minh thêm tình tiết để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 30 ngày, kể từ ngày nhận được các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này kèm theo hồ sơ vụ vi phạm. Trong trường hợp cần xác minh thêm quy định tại khoản 2 Điều này thì thời hạn tối đa không quá 45 ngày.”.
Quy định tại Điều 63 chưa rõ, dẫn đến có các cách hiểu khác nhau như sau:
– Điều 63 chỉ áp dụng đối với trường hợp các vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trực tiếp phát hiện, giải quyết nhưng sau đó có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án, nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì sẽ chuyển hồ sơ cho người có thẩm quyền xử phạt để ra quyết định xử phạt. Như vậy, đối với những trường hợp vụ việc vi phạm hành chính do các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện nhưng nhận thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và chuyển cơ quan tố tụng xem xét nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì áp dụng quy định nào để xử lý tiếp?
– Quy định ở Khoản 2 chưa rõ dẫn đến có cách hiểu là căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển thì cơ quan có thẩm quyền xử phạt vẫn phải lập biên bản vi phạm hành chính vì theo quy định tại Điều 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì biên bản vi phạm hành chính là căn cứ để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng nếu lập biên bản vi phạm hành chính thì không bảo đảm nguyên tắc một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập biên bản vi phạm hành chính một lần đã được hướng dẫn ở Nghị định số 81/2013/NĐ-CP.
– Về việc chuyển trả hồ sơ để xử phạt vi phạm hành chính:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 63 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt, nhưng theo quy định tại Khoản 3 Điều 62 thì khi không đủ yếu tố cấu thành tội hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng chuyển trả hồ sơ cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến.
Các quy định tại Khoản 1 Điều 63 và Khoản 3 Điều 62 dẫn đến lúng túng trong thực tế vì có nhiều trường hợp người có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc đó không phải là người chuyển hồ sơ đến thì phải trả cho cơ quan nào?
Từ các vướng mắc đối với Điều 62 và Điều 63 nêu trên, đề nghị sửa đổi, bổ sung để quy định rõ:
– Điều 62 và Điều 63 áp dụng đối với tất cả các trường hợp mà cơ quan tố tụng có tham gia (dù là hồ sơ vụ việc do cơ quan nhà nước phát hiện hay cơ quan tố tụng trực tiếp phát hiện).
– Quy định rõ đối với những trường hợp xử lý vi phạm hành chính theo Điều 62, Điều 63 thì không lập biên bản vi phạm hành chính mà chỉ căn cứ vào hồ sơ do cơ quan tố tụng chuyển sang.
– Quy định rõ và thống nhất về cơ quan nhận lại hồ sơ là cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việc vi phạm đó (không phải là cơ quan đã chuyển hồ sơ đến).
16- Về gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành (Điều 70)
– Một số ý kiến đề nghị tăng thời hạn gửi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành từ 02 ngày làm việc lên 05 ngày làm việc. Vì việc thực hiện quy định này trong xử phạt vi phạm hành chính ở lĩnh vực giao thông, xây dựng rất khó khăn, vì số lượng quyết định xử phạt nhiều, khó xác định địa chỉ vì có nhiều trường hợp người vi phạm an toàn giao thông và chủ công trình vi phạm có nơi cư trú không ổn định nên ít khi có mặt ở địa phương; nhiều trường hợp địa chỉ ghi trong giấy tờ khác với địa chỉ nơi cư trú thực tế.
– Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Đăng quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên trang thông tin điện tử của đơn vị xử phạt vi phạm hành chính để người vi phạm tra cứu”.
– Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 70, một trong những căn cứ được xem là quyết định xử phạt được giao là quyết định xử phạt đã được niêm yết tại nơi cư trú của cá nhân, trụ sở của tổ chức bị xử phạt. Tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục niêm yết, đề nghị bổ sung cho đầy đủ.
17- Về chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành (Điều 71)
Khoản 2, Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định về chuyển quyết định xử phạt để thi hành trong phạm vi một tỉnh ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng xa xôi hẻo lánh. Trong khi đó, yêu cầu về việc chuyển quyết định xử phạt giữa các quận, huyện trong cùng tỉnh, thành phố ở các khu vực không phải miền núi, hải đảo, vùng xa xôi hẻo lánh để thi hành cũng thường xuyên xảy ra nhưng lại không được quy định.
18- Về thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 73)
– Khoản 1, Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó.”.
+ Có ý kiến cho rằng để thống nhất với Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và thực tế cá nhân, tổ chức khiếu nại đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng cơ quan có thẩm quyền thụ lý khiếu nại, khởi kiện không yêu cầu phải chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, dẫn đến quá trình khiếu nại, khởi kiện quá nhiều cấp, đến khi quyết định giải quyết khiếu nại hoặc bản án đã quá 01 năm là thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, để nghị sửa khoản 1 Điều 73 như sau: “…Trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt xong mới được khiếu nại, khiếu kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 15 của Luật này. Việc khiếu nại, khởi kiện được giải quyết theo quy định của pháp luật”.
+ Có ý kiến khác cho rằng, quy định tại khoản 1, Điều 73 chưa thống nhất với quy định tại Khoản 1 Điều 78: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt, trừ trường hợp đã nộp tiền phạt quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”. Vì thời hạn thi hành quyết định xử phạt có thể trên 10 ngày nhưng thời hạn nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước chỉ có 10 ngày.
– Khoản 2 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Người có thẩm quyền xử phạt đã ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc chấp hành quyết định xử phạt của cá nhân, tổ chức bị xử phạt và thông báo kết quả thi hành xong quyết định cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, cơ quan tư pháp địa phương.”. Có ý kiến cho rằng, Luật không quy định về trách nhiệm của người bị xử phạt phải thông báo cho người có thẩm quyền xử phạt biết việc nộp tiền phạt, gây khó khăn cho công tác theo dõi việc thi hành quyết đinh xử phạt. Do đó, đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của đối tượng bị xử phạt trong việc thông báo đã chấp hành xong quyết định xử phạt.
19- Về thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản (Điều 75)
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm chế tài đối với một số tổ chức lợi dụng việc giải thể, phá sản quy định tại Điều 75 Luật Xử lý vi phạm hành chính để trốn tránh trách nhiệm không thi hành quyết định phạt tiền.
20- Về hoãn thi hành quyết định phạt tiền và giảm, miễn tiền phạt vi phạm hành chính (Điều 76, Điều 77)
Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 Luật hiện hành, chỉ có cá nhân mới được hoãn, giảm, miễn tiền phạt, tổ chức không được hoãn, giảm, miễn tiền phạt, quy định này tạo sự không bình đẳng giữa các đối tượng bị xử phạt. Do đó, đề nghị bổ sung trường hợp tổ chức được hoãn, giảm, miễn tiền phạt.
Trong thực tế, bên cạnh số tiền phạt thì nhiều trường hợp, số tiền khắc phục hậu quả, số tiền thu lợi bất hợp pháp có giá trị rất lớn. Do đó, đề nghị quy định việc giảm, miễn tiền phạt bao gồm số tiền khắc phục hậu quả, số tiền thu lợi bất hợp pháp. Đồng thời, xem xét bổ sung những trường hợp được xem là khó khăn về kinh tế để bảo đảm tính khả thi. Ví dụ, cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thất nghiệp, không có thu nhập ổn định; tổ chức bị phá sản, …
21- Về thủ tục nộp tiền phạt (Điều 78)
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 78, nếu người bị xử phạt nộp tiền phạt quá thời hạn thì còn phải nộp tiền phạt chậm nộp với mức 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp. Trong trường hợp đối tượng bị xử phạt nộp tiền phạt bằng hình thức chuyển khoản thì đơn vị nào tính số tiền phạt chậm nộp, trình tự, thủ tục thu như thế nào, …Do đó, đề nghị cần có quy định cụ thể về trường hợp này.
22- Về nộp tiền phạt nhiều lần (Điều 79)
– Điểm a khoản l Điều 79 quy định tổ chức bị phạt trên 200.000.000 đồng mới được xem xét nộp phạt nhiều lần (tổ chức gấp 10 lân cá nhân) là không phù hợp với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điểm e khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính “Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân”. Trong khi đó, hiện nay nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên rất cần sự hỗ trợ để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Có ý kiến đề nghị xem xét điều chỉnh điểm a khoản 1 Điều 79 như sau: “Bị phạt 20.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 200.000.000 đằng trở lên đối với tổ chức” thành “Bị phạt 20.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 40.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức”.
– Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định về chính sách, trình tự, thủ tục nộp tiền phạt nhiều lần theo quy định tại Điều 79 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
23- Về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu (Điều 82)
Có ý kiến đề nghị:
– Bổ sung thêm thời gian nhiều hơn 30 ngày theo quy định tại khoản 3, Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính về thời gian xử lý tang vật, phương tiện đối với các trường hợp vi phạm có tính chất phức tạp và cần quy định giá trị tang vật vi phạm để thuận lợi cho công tác tổ chức xử lý.
– Bổ sung hình thức xử lý đối với chính chủ của phương tiện vi phạm để đảm bảo cho việc xử lý vi phạm nhằm tránh tình trạng tái diễn vi phạm cùng 01 phương tiện nhưng đương sự thực hiện hành vi vi phạm lại là người khác.
24- Về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 86)
– Có ý kiến cho rằng, các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 2, Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa khả thi, chưa phù hợp với thực tế vì các lý do sau:
+ Khó xác định được các nguồn tiền, tài sản khi đối tượng vi phạm từ chối cung cấp hoặc cố tình cung cấp sai trong khi Luật chưa quy định cơ chế xác minh.
+ Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế được thực hiện theo thứ tự và chỉ được áp dụng các biện pháp tiếp theo khi không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc đã áp dụng nhưng chưa thu đủ số tiền bị cưỡng chế theo quyết định cưỡng chế. Quy định này không phù hợp với thực tế, nhất là đối với biện pháp khấu trừ tiền từ tài khoản vì quy định hiện hành chưa quy định cụ thể về cơ chế xác minh tài khoản ngân hàng, đặc biệt trong trường hợp đối tượng vi phạm từ chối cung cấp thông tin.
+ Luật Xử lý vi phạm hành chính chủ yếu quy định về cưỡng chế đối với hình thức xử phạt chính là phạt tiền, chưa quy định cụ thể biện pháp cưỡng chế đối với các hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn; đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu, buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,…
Do đó, đề nghị bổ sung các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm tính khả thi, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
25- Về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 95)
Khoản 2, Điều 95 luật hiện hành quy định “2. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng”. Tuy nhiên, chưa có quy định về tiêu chí căn cứ cụ thể để cơ quan chức năng xem xét, xác định số tháng người nghiện ma túy phải chấp hành dẫn đến có số trường hợp nhân thân như nhau, thời gian sử dụng ma túy như nhau nhưng hai địa phương khác nhau xử lý dẫn có thời cai nghiện khác nhau. Do đó, kiến nghị bổ sung cụ thể tiêu chí dựa vào tình trạng nghiện của đối tượng để xác định số tháng chấp hành cai nghiện.
26- Về Lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc (Điều 99, Điều 101)
Khoản 3, Điều 99 và khoản 3, Điều 101 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cơ quan đã lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc phải thông báo cho người bị đề nghị áp dụng (cha mẹ hoặc người đại diện của họ) về việc lập hồ sơ. Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định giao cho gia đình tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định chế tài xử lý đối với gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị để họ trốn sau khi đã được thông báo, nên trong thực tế nhiều gia đình không thực hiện quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Và quy định không khả thi trên thực tế. Đề nghị cần quy định cụ thể hơn để việc áp dụng luật thực sự có hiệu quả, khả thi.
27- Về lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định (Điều 103)
Khoản 3, Điều 103 luật hiện hành quy định:“3. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cơ quan lập hồ sơ phải thông báo cho người bị đề nghị hoặc đại diện hợp pháp của họ biết trước khi chuyển hồ sơ theo các trình tự tiếp theo”. Có ý kiến đề nghị cần nghiên cứu sửa đổi Điều 103 cho phù hợp với tình hình thực tiễn, vì sau khi nhận được thông báo, người nghiện đều có tâm lý muốn bỏ trốn khỏi địa phương, trong khi đó hiện nay không có quy định hoãn, tạm đình chỉ hoặc tiếp tục tiến hành các thủc tục lập hồ sơ khi đối tượng trốn.
28- Thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 110)
Khoản 2, Điều 110 luật hiện hành quy định:“2. Thời hạn chấp hành quyết định được tính từ ngày người phải chấp hành quyết định bị tạm giữ để đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc”.
Có ý kiến cho rằng, tại Khoản 74 Điều 1 của Dự thảo về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về việc giao cho gia đình, tổ chức xã hội quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy quy định: “Đối tượng vi phạm bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì giao cho cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc quản lý”. Như vậy, thời gian quản lý để làm thủ tục này có được xem là thời gian tạm giữ không. Do đó, kiến nghị điều chỉnh thời hạn chấp hành quyết định được tính từ ngày người bị đề nghị được giao cho cơ sở xã hội, cơ sở cai nghiện bắt buộc quản lý.
29- Về tạm thời đưa ra khỏi cơ sở cai nghiện theo yêu cầu của cơ quan tố tụng hình sự (khoản 1, Điều 115)
Khoản 1, Điều 115 luật hiện hành quy định: “1. Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền Giám đốc Cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định tạm thời đưa người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính ra khỏi nơi chấp hành để tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó.” Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp có nhu cầu tham gia các vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình, … nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định. Do đó, kiến nghị bổ sung quy định tạm thời đưa người nghiện đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ra khỏi cơ sở cai nghiện ma túy trong các vụ án dân sự, hình chính,…
30- Về truy cứu trách nhiệm hành sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính (Điều 117)
Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trường hợp phát hiện người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền Giám đốc Cơ sở cai nghiện bắt buộc phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định và chuyển hồ sơ; trường hợp bị tòa án phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính”.
Có ý kiến cho rằng, tại Điều 32a của Luật Phòng chống ma túy được sửa đổi bổ sung quy định: “Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn phải thực hiện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.”. Do đó,kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp giữa hai quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật phòng chống ma túy.
31- Về xử lý trường hợp một người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 118)
Khoản 2, Điều 118 quy định “Trường hợp người nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Cơ sở giáo dục bắt buộc thực hiện việc cai nghiện cho đối tượng này”. Đề nghị cần làm rõ thế nào là “côn đồ hung hãn” để thuận lợi khi áp dụng trong thực tế.
32- Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính (Điều 119)
Có ý kiến cho rằng, Điều 119 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính, trong đó có biện pháp: “Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề” là biện pháp có thể áp dụng để ngăn chặn các hành vi vi phạm hành chính về trật tự xâu dựng. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này cunxh chưa mang lại hiệu quả cao vì các phương tiện được sử dụng chủ yếu trong thi công xây dựng nhà ở riêng lẻ là những vật dụng có giá trị thấp (cuốc, xẻng, bay,…), dễ dàng mua mới nên việc tạm giữ không ảnh hưởng nhiều đến việc thi công công trình. Do đó, đề nghị bổ sung biện pháp ngăn chặn (không phải là biện pháp cưỡng chế) ngừng cung cấp dịch vụ điện, nước là hết sức cần thiết, hạn chế tình trạng tiếp tục thi công xây dựng công trình phát sinh phần diện tích vi phạm mới gây khó khăn trong công tác xử lý vi phạm hành chính. Mặt khác, giúp giảm thiệt hại của người dân và cơ quan quản lý Nhà nước về thời gian, kinh phí trong việc tháo dỡ công trình vi phạm.
33- Về tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính (Điều 128)
– Có ý kiến đề nghị quy định thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện cho Trưởng Đoàn kiểm tra Liên ngành. Cụ thể đưa Trưởng Đoàn kiểm tra Liên ngành vào người có thẩm quyền xử phạt và có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm vào Chương II – Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của Luật Xử lý vi phạm hành chính.