Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Thứ tư, 26 Tháng 9 2018 15:42
25560 Lượt xem
(LLCT) – Hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Với 3 đặc trưng cơ bản là nhất nguyên, dân chủ và thống nhất, hệ thống chính trị Việt Nam đã thể hiện tính ưu việt trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ. Bên cạnh những ưu điểm, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập: bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả; quan hệ giữa các chủ thể chưa được xác định rõ ràng, chồng chéo, chưa phát huy hết tiềm năng, tính năng động của các chủ thể… Do vậy, đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị đang là đòi hỏi của công cuộc đổi mới hiện nay.
1. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản chính thức của Đảng ta từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI. Cho đến nay, khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước, các công trình nghiên cứu và các diễn đàn khoa học.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể gồm các thiết chế chính trị là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân (bao gồm Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
So với hệ thống chính trị của một số nước, hệ thống chính trị Việt Nam có tính đặc thù và có những nét cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống tổ chức nhất nguyên chính trị; bảo đảm tính thống nhất về mục tiêu và lợi ích.
Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam được thể hiện:
+ Về tổ chức.Ở Việt Nam, có nhiều tổ chức và đoàn thể nhân dân nhưng không có tổ chức chính trị và đảng chính trị đối lập được thành lập công khai. Các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể nhân dân đều thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Về tư tưởng:Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đều nhằm đấu tranh giành và bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng cộng sản Việt nam, phục vụ mục tiêu, lý tưởng của giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị Việt Nam thể hiện:
+ Thống nhất về mục tiêu.Trong cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam gồm 3 bộ phận: Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cả 3 bộ phận đó đều có chung mục tiêu là đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và đi lên CNXH; xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu từ khi Đảng ra đời, chính quyền nhân dân mới được thành lập, là mục tiêu xuyên xuốt của cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn của toàn thể nhân dân, dân tộc Việt Nam. Tất cả mọi hoạt động của các thành viên của hệ thống chính trị đều nhằm đạt được mục tiêu đó.
+ Thống nhất về phương thức hoạt động.Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
+ Thống nhất về nguyên tắc hoạt động.Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, từ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện hệ thống chính trị và toàn xã hội; nguyên tắc dựa vào nhân dân, giữ vững mối quan hệ mật thiết với nhân dân; nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy lợi ích dân tộc làm điểm tương đồng và nguyên tắc nhân dân là chủ xã hội và đất nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân.
+ Về mặt tổ chức. Hệ thống chính trị Việt Nam có sự thống nhất cả về tổ chức bộ máy và hoạt động từ Trung ương đến cơ sở. Về cơ bản, hệ thống chính trị cấp dưới là mô hình thu nhỏ của hệ thống chính trị cấp trên. Bộ máy đảng, chính quyền đoàn thể cấp trên có chức năng gì, cơ quan gì thì bộ máy cấp dưới có chức năng, tổ chức tương ứng, chỉ có điều là gọn nhẹ hơn, giản đơn hơn. Kiểu tổ chức hệ thống như vậy bảo đảm được tính thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến cơ sở.
Hai là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam vừa thể hiện được tính giai cấp sâu sắc, vừa thể hiện được tính nhân dân rộng rãi.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Như vậy, trong bản thân Đảng đã chứa đựng cả yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc, vừa thể hiện bản chất giai cấp, đồng thời cũng thể hiện tính chất nhân dân của Đảng. Đó là điểm khác biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ của giai cấp, mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước đó cũng chứa đựng tính chất giai cấp và tính nhân dân rộng rãi.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đều phục vụ cho mục tiêu của giai cấp và dân tộc, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Thông qua tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các nhóm xã hội đều có tiếng nói chung, đều có quyền thể hiện tâm tư, nguyện vọng, chính kiến của mình và được tôn trọng.
Ba là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam vừa bảo đảm được tính dân chủ rộng rãi, đồng thời bảo đảm được tính nghiêm minh, tối thượng của pháp luật.
Tính dân chủ rộng rãi của tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị Việt Nam trước hết thể hiện tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị Việt Nam đều hướng tới bảo đảm và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ nhân của đất nước, là chủ thể quyền lực. Quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân giao cho. Lợi ích của nhân dân là tối thượng. Nhân dân là người quyết định vận mệnh của
đất nước.
Tính dân chủ rộng rãi còn thể hiện mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội đều được tôn trọng. Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng nhu cầu, nguyện vọng và quyền của mọi công dân. Tất cả mọi người dân đều có quyền bình đẳng tham gia vào công việc chính trị của đất nước, tham gia quản lý xã hội, tham gia bầu cử, lựa chọn người đại diện cho mình, không có phân biệt đối xử.
Cùng với tính dân chủ rộng rãi, tổ chức của hệ thống chính trị Việt Nam còn thể hiện tính nghiêm minh, tối thượng của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam quy định: Đảng, Nhà nước tôn trọng các quyền tự do công dân, quyền tự do lập hội… nhưng cả hệ thống chính trị, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi trái với Hiến pháp và pháp luật, đi ngược lại lợi ích của giai cấp và dân tộc đều bị nghiêm trị, không phân biệt đối xử. Tất cả Điều lệ Đảng, điều lệ của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đều thể hiện tính thống nhất về hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Bốn là, tổ chức của hệ thống chính trị Việt Nam vừa bảo đảm tính tập trung thống nhất trong hoạt động, đồng thời cũng phát huy được tính năng động, chủ động của các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta được phân thành 4 cấp. Cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Tương ứng với nó là các cơ quan đảng, đoàn thể và nhà nước ở Trung ương, tỉnh, huyện và xã, phường, thị trấn. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực thống nhất.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Mặt khác, hệ thống chính trị Việt Nam cũng thể hiện được sự phân công phân cấp trách nhiệm, tạo điều kiện phát huy vai trò, tính năng động, chủ động của các cơ quan và chính quyền các cấp. Sự phân công, phân cấp thể hiện ở việc xác định thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị Việt Nam xác định: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Trong bộ máy nhà nước, từng bộ phận được phân công trách nhiệm rõ ràng: Quốc hội là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành. Tòa án, viện kiểm sát là cơ quan tư pháp, giám sát tối cao đối với các hoạt động của nhà nước.
Nhìn một cách tổng thể, hệ thống chính trị Việt Nam với 3 đặc trưng cơ bản là nhất nguyên, dân chủ và thống nhất đã thể hiện tính ưu việt của nó là tạo được sự ổn định chính trị – xã hội trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, đã huy động được đông đảo lực lượng nhân dân, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Hệ thống chính trị đó vừa giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền lực của Nhà nước và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Nhờ những đặc trưng cơ bản đó mà hơn 70 năm qua, hệ thống chính trị Việt Nam đã làm tròn sứ mệnh của mình đối với đất nước và dân tộc.
Bên cạnh những ưu việt đã nêu trên, mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam cũng bộc lộc những hạn chế, bất cập.
Về cơ bản, hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức theo mô hình hệ thống chính trị Xô viết và ở các nước XHCN trước đây. Tuy trong quá trình đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã tập trung đổi mới hệ thống chính trị nhưng những vấn đề cốt lõi, bộ khung vẫn còn đậm dấu ấn của mô hình Xô Viết, chứa đựng trong đó những khiếm khuyết nhất định. Điều đó được thể hiện:
– Với cách thức tổ chức mô hình hệ thống chính trị như hiện nay, đã tạo ra sự cồng kềnh, kém hiệu quả trong hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
– Hệ thống chính trị còn nhiều trì trệ, chưa thật sự phát huy hết tiềm lực, tiềm năng, tính năng động của các chủ thể.
– Hệ thống chính trị hiện nay chưa thực hiện tốt các cơ chế tổ chức thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, dẫn đến tình trạng chồng chéo, giảm hiệu lực, hiệu quả của quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
Tóm lại, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay có những ưu việt nhất định nhưng cũng bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập. Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được hoàn thiện. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và còn nhiều kẽ hở. Cơ chế lãnh đạo, quản lý, mối quan hệ giữa các chủ thể chưa được xác định rõ ràng, chồng chéo… Đó là những thiếu khuyết trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
2. Những vấn đề đặt ra từ mô hình hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Từ thực trạng tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, từ yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cần được giải quyết.
Thứ nhất, vấn đề xác định rõ vị trí, vai trò và giải quyết mối quan hệ về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra vấn đề là: Mối quan hệ quyền lực của Đảng cầm quyền với quyền lực nhà nước như thế nào. Đảng ta là Đảng cầm quyền nhưng cầm những quyền gì, cầm đến đâu. Nội dung, phương thức cầm quyền như thế nào trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền để tránh độc quyền và lạm quyền, để phát huy được vai trò và quyền lực của Nhà nước.
Quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân giao cho nhưng Nhà nước lại chịu sự lãnh đạo của Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân. Vậy cơ chế nào để nhân dân thực sự giám sát, kiểm soát được quyền lực
của mình.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong hơn 30 năm qua được Đảng ta quan tâm thể chế hóa nhưng đến nay vẫn là vấn đề còn khá chung chung. Đâu là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đâu là quản lý của Nhà nước và đâu là quyền làm chủ của nhân dân. Nhìn chung, chúng ta còn thiếu một bộ quy chế hoàn chỉnh, cụ thể về vấn đền này.
Thứ hai, vấn đề kiện toàn mô hình tổ chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế hoạt động của cả hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
Về tổ chức bộ máy Đảng cầm quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khắc phục cơ bản tình trạng chồng chéo, cồng kềnh.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”(1). “Đảng cầm quyền” ở nước ta không những chỉ là đảng lãnh đạo chính quyền mà còn là đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Điều này, đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, giải quyết mối quan hệ Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời là một bộ phận của hệ thống đó, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, là thành viên của Mặt trận nhưng lại chịu sự giám sát của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Trong hệ thống chính trị hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Namlà hạt nhân, vừa là người lãnh đạo nhưng đồng thời vừa là thành viên củaMặt trận. Vậy, vai trò lãnh đạo và vai trò là hạt nhân lãnh đạo, vai trò là người lãnh đạo Mặt trận và vai trò là thành viên của Mặt trận cần được xác định rõ ràng. Hiện nay, mối quan hệ này chưa rõ, vì vậy, trong thực tế rất nhiều nội dungbị nhận thức sai, thậm chí lợi dụng để áp đặt ý kiến chủ quan.
Thực chất quan điểm Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại “thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” còn nhiều điểm chưa rõ, cần tiếp tục được giải mã. Tương tự, quan điểm “Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động” nhưng “Mặt trận và các đoàn thể” lại “thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” còn nhiều điểm chưa rõ, cần tiếp tục giải mã.
Thứ tư, mối quan hệ giữa phân cấp, phân quyền và kiểm soát quyền lực của các chủ thể trong hệ thống chính trị.
Đối với nước ta, quyền lực là thống nhất, tập trung vào bộ máy nhà nước, không phân chia quyền lực nhưng có phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tuy nhiên, giải quyết mối quan hệ giữa 3 bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp như thế nào để vừa có tính độc lập tương đối, vừa để phối hợp chặt chẽ, kiểm soát, giám sát lẫn nhau là vấn đề cần được làm rõ.
Trong hệ thống nhà nước Việt Nam, từ Trung ương đến cơ sở là thống nhất, không phân chia quyền lực nhưng có phân cấp; Hiến pháp Việt Nam không cho phép các địa phương quyền tự quyết, tự trị nhưng có sự tôn trọng bản sắc văn hóa, phong tục tập quán, tiếng nói của các dân tộc, tôn trọng và bảo đảm tính chủ động của chính quyền địa phương được quyết định một số vấn đề của địa phương trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, việc phân cấp, phân quyền giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương như thế nào để vừa bảo đảm tính thống nhất trong quốc gia, một nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm được quyền chủ động của chính quyền địa phương, không rơi vào tình trạng “cát cứ”, bảo đảm được quyền dân chủ, quyền giám sát của chính quyền địa phương đối với chính quyền Trung ương. Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cần có lời giải đáp.
3. Phương hướng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
a) Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thực hiện nghiêm túc, quyết liệt Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Trước mắt, rà soát, sắp xếp lại các tổ chức, cơ quan đơn vị, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Thực hiện quyết liệt việc tinh giản biên chế. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Phương châm là: Nhà nước không thành lập và đồng thời giải thể những cơ quan, đơn vị làm công việc mà xã hội đảm đương được. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, trước hết là năng lực định hướng chính trị, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. Xác định và phân ranh giới rõ nội dung, phạm vi lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Khắc phục sự chống chéo, lấn sân, ôm đồm, bao biện và tình trạng buông lỏng trong lãnh đạo, quản lý.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp các ngành, đặc biệt tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, chuyên nghiệp, có thái độ tận tụy vì dân, trọng dân, cùng dân, thực sự là công bộc của nhân dân.
Tiếp tục tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, trong đó tập trung quyết liệt cải cách thủ tục hành chính; đẩy nhanh tiến độ xây dựng chính phủ, chính quyền điện tử. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện quy chế kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức triển khai quyết định của cấp ủy, chính quyền cấp trên.
b) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Tập trung cải cách nền hành chính trong sạch, vì dân. Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn, hiệu lực,hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả ba bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp, cả chính quyền Trung ương và cả chính quyền địa phương. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.
Đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế là nền tảng pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị. Luật hóa, quy chế hóa vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của các thành tố cấu thành hệ thống chính trịcũng như các quan hệ giữa các thành tố cấu thành hệ thống chính trị, bảo đảm mọi hoạt động của hệ thống chính trịtrong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
c) Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ thực sự của nhân dân. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hộithực sự là cơ sở chính trị của Đảng và chính quyền nhân dân.
Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”, gắn quyền với trách nhiệm nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo; làm rõ cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua các cơ sở pháp lý cụ thể.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội theo hướng tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động; khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa” để gần dân, sát dân hơn.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các Luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội cho phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp, thiết lập mối quan hệ phù hợp với các cơ quan nhà nước để bảo đảm phát huy sức mạnh, mục tiêu, ý nghĩa của từng tổ chức trong việc tham gia xây dựng nhà nước và bảo vệ lợi ích hợp pháp, phát huy dân chủ cho các thành viên. xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước; đổi mới, tăng cường giám sát quyền lực nhà nước; nâng cao vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc; đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giản biên chế… Đổi mới sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội.
d) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm trong sạch nội bộ Đảng và các cơ quan công quyền.
Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Trung ương 4 khóa XII. Tập trung chỉ đạo công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật, chính sách quản lý kinh tế – xã hội trên các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và tích cực phòng ngừa, ngăn chặn, hướng tới loại bỏ những điều kiện, cơ hội nảy sinh tham nhũng.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng. Sớm kiện toàn các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng do Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao trực tiếp chỉ đạo. Nghiên cứu tổ chức Ủy ban phòng, chống tham nhũng quốc gia độc lập, do Quốc hội thành lập.
________________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luân chính trị số 7 -2018
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.210-211.
Tài liệu tham khảo:
1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội VI… XI, XII.
2. ĐCSVN: Điều lệ Đảng Khóa XI
3. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
4. Quốc hội: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
5. Quốc hội: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 75/2015/QH13
6. Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp: Báo cáo Ban Bí thư về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, 2010.
7. Nguyễn Thị Hạnh và cộng sự: Đề tài cấp Bộ Sửa đổi chế định Chính phủ trong Hiến pháp1992, 2013.
8. GS,TS Trần Ngọc Đường: Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012.
9. Hội đồng Lý luận Trung ương : Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học: Đổi mới hệ thống chính trị và việc thể hiện đổi mới hệ thống chính trịtrong Hiến pháp,2011.
10. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
11. Một số mô hình chế độ chính trị trên thế giới và những giá trị tham chiếu nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam; Đề tài khoa học cấp bộ, PGS, TS Trương Thị Thông làm Chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2016.
PGS, TS Lê Kim Việt
Viện Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh