Tìm hiểu một số đặc điểm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ sáu, 04 Tháng 11 2022 16:14

2924 Lượt xem

(LLCT) – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(1). Quá trình đổi mới hệ thống chính trị là quá trình kiên trì và thực hiện thắng lợi các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi dự kiến cải cách, xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước đều xuất hiện những vấn đề lý luận và thực tiễn với quy mô, chiều sâu và mức độ rộng lớn hơn nhiều. Đây cũng là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”(2), nhưng lại là “vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”(3). Thực tiễn đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, trước hết phải phù hợp với những nội dung và các giá trị tư tưởng mà văn minh nhân loại đã đạt được. Bài viết bước đầu nghiên cứu một số đặc điểm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

Toà nhà Quốc hội Việt Nam – nơi quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước – Ảnh: vtv.vn 

1. Cơ sở chính trị – pháp lý xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thuật ngữ nhà nước pháp quyền bắt nguồn từ tiếng Đức Reich Stag – dùng để chỉ hội đồng lập pháp Đức, được ghép bởi hai từ: Reich – tức là đế chế hay vương quốc và Tag – nghị viện hay hội đồng lập pháp. Đây là thuật ngữ chính trị – pháp lý dùng để chỉ bất cứ quốc gia lập hiến nào xây dựng thể chế chính trị bằng con đường dân chủ, trên cơ sở có một hiến pháp phản ánh nguyện vọng, ý chí của nhân dân, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân.

Khái niệm nhà nước pháp quyền là sản phẩm của lịch sử gắn với điều kiện kinh tế – xã hội của các thời đại. Trong thời cổ đại, cả phương Tây và phương Đông đều có những tư tưởng sơ khai về nhà nước pháp quyền. Nhữngchuyển biến lịch sử cơ bản tạo điều kiện tiền đề cho sự ra đời của khái niệm nhà nước pháp quyền là từ xã hội phong kiến sang xã hội tư sản, từ xã hội thần dân sang xã hội công dân.

Mặt khác, nhà nước pháp quyền vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây là phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù chứa đựng những giá trị quý báu của nền dân chủ tiến bộ và được xem như là một yếu tố của nền văn minh nhân loại với những đặc trưng phổ biến như: Cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân; bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật trong đời sống pháp luật; Nhà nước bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân… Ngày nay, nhà nước pháp quyền được đánh giá là hình thức nhà nước có khả năng thực hành dân chủ tốt nhất(4).

Trước Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng, xét theo nội dung và yêu cầu khách quan của nhà nước pháp quyền những đặc trưng và giá trị phổ biến của nó đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng linh hoạt khá rõ, nhất là trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 cũng như những văn bản pháp luật cụ thể hóa các bản Hiến pháp này. Đó chính là kết quả của việc vận dụng tư tưởng về nhà nước kiểu mới, nhà nước vô sản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta mới khẳng định “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này là “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của Việt Nam do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5). Đây là lần đầu tiên trong văn kiện quan trọng của Đảng chính thức sử dụng thuật ngữ Nhà nước pháp quyền và nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và trở thành chủ trương có tầm chiến lược, định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước.

Các Đại hội VIII và IX khẳng định và nhấn mạnh thêm: tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân… Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đại hội X của Đảng khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo… Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(6). 

Trên cơ sở những thành tựu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến Đại hội XII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Đại hội XIII khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(7).

2. Một số đặc điểm cơ bản trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam

Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quá trình chuyển biến dần dần từ nhà nước dân chủ nhân dân thành Nhà nước pháp quyền XHCN

Đấu tranh giai cấp là quá trình chuyển những vấn đề kinh tế thành vấn đề chính trị, tức là giành, bảo vệ và sử dụng chính quyền nhà nước theo những mục đích kinh tế của giai cấp. Từ kinh tế đến chính trị và quay lại giải quyết những vấn đề kinh tế. Trong đó giành quyền lực nhà nước là cơ bản nhất vì giai cấp nào có nhà nước của mình là có tất cả. Ở đây chính trị đã được “thiết chế hóa” thành hệ thống của các bộ máy mà biểu hiện tập trung là nhà nước. Nó tác động trở lại kinh tế như là một sức mạnh kinh tế. Do đó, nhà nước nào về thực chất cũng là chuyên chính chính trị của một giai cấp.

Nhà nước XHCN Việt Nam ra đời trên cơ sở chuyển từ nhà nước dân chủ nhân dân từng bước tiến dần lên kiểu nhà nước XHCN, gắn liền với cách mạng dân tộc, dân chủ có nhiệm vụ chống đế quốc, chống địa chủ phong kiến nhằm giải phóng dân tộc, giành lấy dân chủ cho nhân dân và nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường XHCN.

Nhà nước ta hiện nay vừa mang một số tính chất của nhà nước dân chủ nhân dân và đã có một số tính chất XHCN, vượt khỏi giới hạn nhà nước dân chủ nhân dân. Nhà nước dân chủ nhân dân và nhà nước XHCN tuy hình thức có khác nhau nhưng bản chất là một. Đó là chính quyền thuộc nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cho nên, sự chuyển hóa từ nhà nước dân chủ nhân dân lên nhà nước XHCN diễn ra dần dần, không có ranh giới tuyệt đối.

Nhà nước XHCN chỉ được xác lập hoàn toàn khi CNXH về cơ bản đã được xây dựng xong. Quá trình này diễn ra vừa thống nhất, vừa khác biệt giữa ba trình độ phát triển của nhà nước cách mạng ở Việt Nam. Đó là, nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước XHCN trong thời kì quá độ, nhà nước XHCN được xác lập hoàn toàn. Trong ba thời kỳ, Nhà nước có cùng bản chất đều là quyền lực của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu từ đó không thấy sự khác biệt. Nếu đồng nhất nhà nước dân chủ nhân dân với nhà nước XHCN trong thời kỳ quá độ thì sẽ không thấy được những bước chuyển của cách mạng Việt Nam, không thấy được những biến đổi căn bản trong lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước. Nếu đồng nhất nhà nước XHCN trong thời kỳ quá độ với nhà nước XHCN được xác lập hoàn toàn trên cơ sở của chính nó, tức là muốn có ngay một nhà nước đầy đủ tính chất XHCN tiên tiến, khi chưa có cơ sở kinh tế – xã hội tương ứng thì sẽ rơi vào chủ quan duy ý trí và ảo tưởng. Thực tế, thời gian qua ở nước ta tồn tại một số tình trạng chủ quan duy ý trí, quan liêu, thiếu dân chủ, dân chủ hình thức, hoạt động kém hiệu quả – những khiếm khuyết còn tồn tại có nguyên nhân từ những quan điểm sai lầm đó.

Cần phân biệt rõ nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó có Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của giai cấp vô sản, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Giai cấp công nhân thực hiện chuyên chính không phải cho riêng mình mà vì lợi ích chung và hoạt động tự do của toàn thể nhân dân lao động nhưng giai cấp bóc lột thực hiện chuyên chính là vì lợi ích và quyền tự do hoạt động của riêng mình. Nhà nước không đại diện riêng cho lợi ích của giai cấp công nhân mà đại diện cho lợi ích của toàn bộ những người lao động. Quyền lực nhà nước không phải thuộc riêng về giai cấp công nhân mà là quyền lực chung của nhân dân lao động, trong đó giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo (qua Đảng Cộng sản). Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện nguyên tắc tất cả xuất phát từ con người, do con người và vì con người. Đây không chỉ thuộc về phạm trù đạo đức mà do tính tất yếu kinh tế – xã hội quy định.

Vì thế, ở Việt Nam, bảo vệ và thực hiện chuyên chính của giai cấp công nhân trước hết là bảo vệ và thực hiện việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, giải phóng con người, phát huy năng lực sáng tạo của con người, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề sau:

Thứ nhất, thực hiện tiêu chí cốt lõi nhất của nhà nước pháp quyền là tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là người chủ tối thượng, tuyệt đối và duy nhất của quyền lực nhà nước. Trên thực tế, nhà nước pháp quyền trong chế độ tư sản đã không thỏa mãn tiêu chí cơ bản này. Mặc dù hiến pháp nào của nhà nước pháp quyền tư sản cũng nói đến dân chủ, công bằng, bình đẳng như những dấu hiệu nhận biết về bản tính công cộng của quyền lực nhà nước, nhưng thực chất, quyền lực ấy vẫn chỉ là phục vụ chủ yếu cho những chủ tư bản, cho giai cấp tư sản.

Thứ hai, sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân trong nhà nước pháp quyền XHCN. Lần đầu tiên trong lịch sử, một giai cấp lao động tiến tới cầm quyền và cầm quyền được (do sự phát triển tất yếu và điều kiện lịch sử) sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử, cầm quyền không phải vì riêng mình mà vì tất cả và do đó, tạo nên nhà nước kiểu mới thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội rộng khắp, từng bước xóa bỏ sự áp bức bất công, xóa bỏ sự nô dịch của con người đối với con người, của dân tộc này đối với dân tộc khác. Cơ sở khách quan cho sự thống nhất đó là chế độ công hữu tư liệu sản xuất.

Nhà nước hoạt động bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân thì cũng là bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ở đây, sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước thể hiện rõ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước từ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, đến hoạt động đối nội, đối ngoại đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân, nhằm thực hiện từng bước ý chí và nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Cán bộ công chức nhà nước là “công bộc” của dân, tận tụy phục vụ nhân dân.

Nhà nước kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam thực hiện tốt chính sách đoàn kết dân tộc, chăm lo lợi ích mọi mặt của các dân tộc. Chính vì thế, nhà nước của giai cấp công nhân tổ chức hoạt động vì toàn bộ nhân dân lao động, vì dân tộc, vì tiến bộ của nhân loại mà tồn tại và phát triển.

Ở Việt Nam hiện nay, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là theo xu hướng tất yếu khách quan đó. Tuy nhiên, để thực hiện sứ mệnh thì trước hết và trực tiếp chỉ có thể thực hiện trong phạm vi quốc gia – dân tộc của mình. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc… Dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”(8); “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”(9).

Tinh thần trên sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội II của Đảng (1951), Người khẳng định “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(10). Năm 1961, Người nhấn mạnh “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(11). Theo Người, ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đảng của giai cấp công nhân phải xem lợi ích của quốc gia – dân tộc là lợi ích cao nhất. Đảng của giai cấp công nhân phải là Đảng của dân tộc mà tồn tại và phát triển.

Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(12).

Hai là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Việc khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong các văn kiện của Đảng phản ánh xu thế tất yếu trong sự vận động và phát triển. Là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nhà nước được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế nhất định. Vì thế, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng đồng thời là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tính chất XHCN của nhà nước pháp quyền suy đến cùng do tính định hướng XHCN của cơ sở kinh tế quyết định. Chính đặc tính của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo cơ sở cho sự khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản.

Đại hội IX của Đảng đã nêu bật những thành tựu to lớn trong các mặt, nhất là về mặt kinh tế trong thời kỳ đổi mới và tổng kết những kinh nghiệm quý báu từ các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng. Trên cơ sở đó, Đại hội IX một lần nữa khẳng định, chúng ta xây dựng CNXH từ một nước mà trình độ kinh tế còn thấp kém, bỏ qua chế độ TBCN; đặc điểm đó, không cho phép chúng ta tiến thẳng lên CNXH mà phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế – xã hội có tính chất quá độ. Đại hội chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN (gọi tắt là nền KTTT định hướng XHCN).

Ở đây, định hướng XHCN và XHCN là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Định hướng XHCN là quá trình hướng tới những tiêu chí của CNXH, chứ bản thân nó chưa phải là CNXH. Mục tiêu định hướng XHCN của cách mạng nước ta là làm cho mọi người đều có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Tính định hướng XHCN của kinh tế thị trường cơ bản thể hiện ở chỗ, hướng sự tăng trưởng kinh tế vào việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển, bảo đảm cho con người luôn ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển; làm cho mọi nhu cầu cơ bản và hợp lý của người dân đều được thỏa mãn. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ… Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”(13).

Cần chú ý là, định hướng XHCN chế ngự các mặt tiêu cực của KTTT, đồng thời phát huy mặt tích cực của nó, còn KTTT làm tăng năng suất lao động xã hội, kích thích lao động sáng tạo, góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Phát triển KTTT định hướng XHCN là cơ sở kinh tế thuận lợi cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Xây dựng nền KTTT nhằm giải phóng và phát huy năng lực sản xuất, tăng nhanh năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Chính KTTT định hướng XHCN đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển tư duy chính trị năng động cho việc hoàn thiện một thiết chế nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nền KTTT định hướng XHCN về thực chất là một kiểu tổ chức vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Ở đây, KTTT đóng vai trò động lực thúc đẩy; XHCN đóng vai trò vừa là động lực, vừa hướng dẫn và định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu đã định.

Đảng ta khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(14); là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường”(15). Đây là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc của thế giới.

Ở đây, “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội”(16). Thiếu sự định hướng này rất có thể trung tâm quyền lực chính trị không còn nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội không thực hiện được.

Như vậy, không thể tách rời KTTT với sự định hướng XHCN. Mối liên quan này mang tính nội tại khách quan tất yếu của quá trình phát triển đất nước ta hiện nay. Không có nền KTTT phát triển mạnh mẽ nhờ đó nền sản xuất được xã hội hóa… thì không có CNXH; không có sự định hướng XHCN tức là không có sự can thiệp, điều tiết của chính trị, của nhà nước thì cũng không có KTTT định hướng XHCN. Định hướng XHCN của nền KTTT không phủ nhận quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa KTTT trong thời quá độ lên CNXH với KTTT tư bản chủ nghĩa. Từ đó tạo ra sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền XHCN với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa, đồng thời tạo ra những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện dân chủ nhất nguyên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Chế độ dân chủ nhất nguyên thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tại Việt Nam, là điều kiện cơ bản tạo ra một đời sống dân chủ cao, một hệ thống chính trị thống nhất. Quan hệ giữa Đảng cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản với nhà nước và các đoàn thể nhân dân là những mối quan hệ cơ bản, bao trùm có ý nghĩa cốt tử, quy định bản chất của chế độ chính trị và thực chất mục đích của việc sử dụng quyền lực ở Việt Nam. Quyền lực của nhân dân được thực hiện như thế nào, chế độ chính trị có ổn định không, xã hội có được phát triển không… tất cả tùy thuộc vào việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ trên.

Dân chủ XHCN là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ mà nội dung cơ bản của nó là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là người chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”(17), nghĩa là “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(18). Chế độ dân chủ theo Hồ Chí Minh thực chất là chế độ ủy thác quyền lực của nhân dân cho nhà nước và nhà nước là cơ quan quyền lực của dân, thực thi sự ủy quyền của dân.

Sự thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, giữa quyền tự do cá nhân và trách nhiệm xã hội của họ đối với xã hội là nội dung của dân chủ XHCN, cũng là quá trình thực hiện dân chủ XHCN ngày một tốt hơn. Điều quan trọng trong thực hiện và mở rộng dân chủ là xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân. Tuy nhiên, dân chủ phải gắn với phát triển kinh tế – xã hội, gắn với pháp luật, kỷ cương, ngoài ra còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác: tương quan so sánh lực lượng giai cấp, vị thế, vai trò của đảng cầm quyền, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, truyền thống lịch sử.

Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do Đảng và nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện con người.

Khi Đảng trở thành Đảng duy nhất cầm quyền, rất thuận lợi cho quá trình thực hiện dân chủ trong xã hội, tạo được sự ổn định chính trị, thống nhất quyền lực, tạo được sự đồng thuận trong quá trình thực hiện và mở rộng dân chủ, là tấm gương quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc, làm cho những quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển xã hội, mục tiêu của Đảng được thực hiện bằng sức mạnh của toàn thể dân tộc.

Vì vậy, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần có những hình thức, cơ chế, giải pháp để làm sao một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền mà không bị suy thoái, không bị tha hóa về quyền lực, cầm quyền, mà không trở thành chuyên quyền, không sa vào tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng. Điều đó vừa khẳng định vai trò của Đảng đối với chính quyền và đối với toàn xã hội, vừa có ý nghĩa là phương thức lãnh đạo của Đảng phải thay đổi căn bản so với thời kỳ chưa giành chính quyền.

Cho nên, phát huy việc thực hành dân chủ phải giữ vững và tăng cường vai trò của Đảng. Đảng phải thực sự trở thành tấm gương về dân chủ trong xã hội. Mức độ thực hiện quyền dân chủ của nhân dân được xem là thước đo đánh giá tính đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo làm sao để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn – đó là sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Hiến pháp năm 2013 tại Điều 4 khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội,… gắn bó mật thiết với Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”… Hiến pháp cũng xác định trách nhiệm và khuôn khổ hoạt động của tổ chức Đảng và các đảng viên trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(19).

Bốn là, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu, một yếu tố cơ bản tạo nên bản sắc của văn hóa Việt Nam. Đây chính là đường lối chiến lược là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết dân tộc không chỉ là quyết tâm chính trị, là bản chất nhân văn đã trở thành truyền thống của Đảng ta mà còn là sức mạnh hiện thực của đất nước, trở thành đạo lý sống và phương châm ứng xử của dân tộc Viêt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng phát huy truyền thống đoàn kết cộng đồng, tinh thần khoan dung rộng mở trong giao lưu văn hóa, tư tưởng, tôn trọng các tôn giáo của con người và của cả dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, thành công, đại thành công… Trước lúc đi xa, Người viết trong Di chúc: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta… cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(20).

Quan điểm, đường lối và chủ trương của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc là nhất quán trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn luôn được thực hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thời đại. Cách mạng Việt Nam không thể thành công nếu không phát huy cao độ khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là nòng cốt. Ba lực lượng này đều là những lực lượng lao động xã hội, lực lượng chính trị xã hội với những đặc điểm và vai trò nhất định ở một nước nông dân như Việt Nam.

Nhà nước vô sản Việt Nam là công cụ và đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, đồng thời về cơ bản thống nhất lợi ích của giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Vì thế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam chính là công cụ để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc. Sự lớn mạnh của Nhà nước cũng đồng nghĩa với việc phát huy mạnh mẽ vai trò, công sức, trí tuệ, niềm tin của nhân dân. Nhờ vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân tộc, phát huy được sức sáng tạo của nhân dân trong công cuộc cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Để phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay chúng ta cần phải lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng. Mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH phải trở thành nhân tố quán xuyến và điều chỉnh tất cả các quan hệ “hợp tác và đấu tranh” trong mọi sự khác biệt và tương đồng về lợi ích trên tất cả những phương diện kinh tế, chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng.. Thông qua một hệ thống chính sách đúng đắn, hiệu quả của Đảng và Nhà nước để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai(21).

Kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đây vừa là điều kiện, vừa là cơ sở cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Triết học mácxít coi nhu cầu và lợi ích là động lực của lịch sử. Ở nước ta yêu cầu trong đại đoàn kết dân tộc là cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước, đòi hỏi phải luôn bảo đảm sự thống nhất, hài hòa các quan hệ phức tạp, khác nhau, thể hiện tập trung ở các lợi ích khác nhau một cách bình đẳng và cùng tiến bộ giữa các giai cấp, các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, cá nhân… phù hợp với lợi ích của toàn thể đất nước. Trong vấn đề này, để tăng cường đại đoàn kết dân tộc, phải lấy mục tiêu chung làm trọng đó là phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là cơ sở cho sự ổn định xã hội và góp phần định hướng cho hoạt động của nhà nước. Đường lối phát triển của Việt Nam là phát triển vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tức là phát triển hướng về con người, vì con người. Tất cả đều có cơ hội phát triển và được hưởng mọi thành quả của phát triển tương xứng với đóng góp của mình vào sự phát triển chung của đất nước, đóng góp của mình vào việc xây dựng Nhà nước.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là Nhà nước tốt đẹp nhất trong lịch sử từ trước đến nay vì xét về bản chất, là Nhà nước của đa số, đem lại lợi ích cho đa số quần chúng nhân dân lao động. Định hướng đã rõ, nhưng con đường đạt mục tiêu này còn vô vàn khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi chúng ta không phải là đứng ngoài, trông chờ, phê phán mà phải có trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân cùng nhau “xắn tay” xây dựng Nhà nước này đúng như bản chất của nó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

_________________

Ngày nhận: 10-10-2022; Ngày bình duyệt: 17-10-2022; Ngày duyệt đăng: 4-11-2022.

 

(1), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.174, 174.

(2), (3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị quốc gia, 2005, tr.75, 76.

(4) Xem: Giáo trình triết học Mác – Lênin dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2021, tr.252.

(5) Xem: Ban Tổ chức Trung ương, Tài liệu nghiên cứu một số vấn đề về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân (Nội dung thi nâng ngạch từ chuyên viên chính và tương đương lên ngạch cao cấp), Hà Nội, 2004, tr.25.

(6), (13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.52, 34.

(8) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.61; tr.623-624.

(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr.41, IX.

(11), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.275, 438.

(12)  ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.69-70.

(15), (16) Xem: Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.25, 26.

(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.434

(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.232.

(19) Xem: Hiến pháp năm 2013, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2013, tr.22.

(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.611.

(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.123-124.

PGS, TS NGUYỄN THẾ KIỆT

PGS, TS HOÀNG ANH

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh