Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu –

         Theo quan niệm chung, thuế là một khoản tiền do các cá nhân, tổ chức nộp cho nhà nước để góp phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế nhập khẩu là một loại thuế có vai trò và ý nghĩa thiết thực, không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà quan trọng hơn, nó là công cụ hữu hiệu trong tay nhà nước để kiểm soát hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của chính phủ trong từng thời kỳ. Ngày nay, cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến số phận của thuế nhập khẩu theo hướng hạn chế vai trò của loại thuế này, song về cơ bản, thuế nhập khẩu vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước, nhất là đối với quốc gia đang trong quá trình từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường như Việt Nam hiện nay. Có thể hiểu khái niệm thuế nhập khẩu từ các góc độ tiếp cận khác nhau.

            Nếu xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bằng tiền của các cá nhân, tổ chức vào ngân sách Nhà nước khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ qua biên giới. Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế và người thu thuế là nhà nước. Mặt khác, thuế nhập khẩu cũng được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi quốc gia và chi phối gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trong phạm vi khu vực và toàn cầu.

            Nếu xét về phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu là quan hệ pháp luật phát sinh giữa hai chủ thể: một bên là Nhà nước và một bên là các cá nhân, tổ chức. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành.

            Mỗi một quốc gia độc lập, có chủ quyền đều sử dụng thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới nước mình. Thuế này gọi chung là thuế quan (custom duty). Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới với nước ngoài được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng rào thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”. Do quan niệm khác nhau giữa các nước về nội hàm của khái niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự khác nhau.

So với các loại thuế nội địa thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt. Những khác biệt này bắt nguồn từ bản chất và chức năng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Các đặc trưng này bao gồm:

            Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới. Khái niệm “hàng hóa” là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể hiểu theo nghĩa thông thường, bao gồm các tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị trường bằng cách chuyển vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước. Trong xã hội hiện đại ngày nay, xuất hiện ngày càng nhiều loại hàng hóa vô hình được chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới một nước nhưng không phải bằng phương thức thông thường mà cơ quan Hải quan có thể kiểm soát được. Ví dụ điển hình cho những loại hàng hóa này chính là những sản phẩm phần mềm công nghệ thông tin đưuọc giao dịch hàng ngày qua mạng internet. Ngoài ra , điểm rất đáng được lưu ý là những “dịch vụ” tuy cũng được xuất khẩu và nhập khẩu trên thực tế giữa các quốc gia nhưng hầu như pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của các nước đều không quy định là một phàn trong “đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”. Có lẽ điều này xuất phát từ khó khăn của các cơ quan công quyền trong việc kiểm soát hành vi xuất, nhập khẩu đối với đối tượng là “dịch vụ”.

            Thứ hai, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu. Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu, vì chính người nhập khẩu vừa là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng chịu và do đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là thuế gián thu, bởi lẽ người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một.

            Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động sản xuất, nhập khẩu. Chức năng này thể hiện sự khác biệt căn bản giữa thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân…Tuy nhiên, trải qua thời gian, dưới sức ép của trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại, chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có xu hướng ngày càng giảm sút, để nhường chỗ cho chức năng tạo nguồn thu ngân sách nhà nước.

            Ngày nay, do chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của các nước có xu hướng cắt giảm dần các mức thuế suất nhằm đáp ứng yêu cầu tự do hóa thương mại quốc tế nên có thể trong tương lai, ranh giới để phân biệt giữa thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế nội địa sẽ trở nên rất mong manh và thậm chí co thể bị “xóa nhòa” hoàn toàn, khi mà tự do hóa thương mại đã trở thành xu hướng tất yếu và mang tính hiện thực trên thế giới.