Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam

Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng hướng.

Có thể thấy, Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 17 năm đổi mới (1986- 2003) ta có thể khái quát tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam như sau:

Một là,  thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị trường hàng hoá với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc và ngăn trở. Trên nền tảng tự do hoá đã khai thác được các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, từng doanh nghiệp. Quá trình tích tụ và tập trung trên thị trường đã dẫn tới hình thành các trung tâm thương mại quốc gia và vùng. Đó là cửa ngõ giao lưu hàng hoá, trung tâm phát luồng hàng hoá và tác dụng như đòn xeo thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

 

Hai là,  trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau.

Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối 70- 75% khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ chỉ còn 20- 21% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Hệ thống hợp tác xã còn phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi song chỉ còn chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa, chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ (xem bảng 1)

Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành)

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Tổng số

Trong đó

Quốc doanh

Tập thể

Tư nhân

Tổng số

Tỷ trọng (%)

Tổng số

Tỷ trọng (%)

Tổng số

Tỷ trọng (%)

1990

19031,2

5788,7

30,4

519,2

2,7

519,2

66,9

1991

33403,6

9000,8

26,9

662,4

2,0

662,4

71,1

1992

51214,5

12370,6

24,2

563,7

1,1

563,7

74,7

1993

67273,3

14650,0

21,8

612,0

0,9

612,0

77,3

1994

93940,0

22921

24,4

751,5

0,8

751,5

74,8

1995

121160,0

27367,0

23,6

1060,0

0,9

1060,0

75,5

1996

145874,0

31123,0

23,3

1358,0

0,9

1358,0

75,8

1997

161899,7

32369,2

22,0

1244,6

0,8

1244,6

77,2

1998

185598,7

36093,8

19,4

1212,6

0,7

1212,6

79,9

1999

200923,7

37500,0

18,6

1400,0

0,7

1400,0

80,7

2000

220400

39231,2

17,8

1763,2

0,8

1763,2

81,4

2001

245300

40965,1

16,7

2453,0

1,0

2453,0

82,3

2002

277000

45428

16,4

3601

1,3

3601

82,3

2003

310500

50301

16,2

4036,5

1,3

4036,5

82,5

Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- 2004

Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1980- 2003

Năm

ĐVT

Tổng KNXK

Kim ngạch xuất khẩu

Kim ngạch nhập khẩu

1980

Triệu R- USD

Triệu USD

1.652,8

3386

13142

1985

25559

6985

18574

1990

51564

24040

27524

1991

44252

20871

23381

1992

51214

25807

25407

1993

69092

29852

39240

1994

98801

36000

50000

1995

136043

54489

81554

1996

183995

72559

111436

1997

207773

91850

115920

1998

208560

93610

114950

1999

231590

115230

116360

2000

301192

144827

156365

2001

31189

15027

16162

2002

35830

16530

19300

2003

44875

19880

24995

Ba là, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu hụt hàng hoá sang trạng thái đủ và dư thừa.

Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường – Quy luật cung cầu trong điều kiện tự do hoá.

Nhiều mặt hàng trước đây phải nhập khẩu thì đến nay sản xuất nội địa đã bảo đảm yêu cầu trong nước và có thể xuất khẩu như gạo, đường, xi măng… Quá trình thương mại hoá các yếu tố kinh tế đem lại sự cởi trói các nhu cầu. Nhu cầu đa dạng, phát triển và thu nhập tăng lên đã làm cho cầu thị trường phong phú và biến đổi khôn lường. Những nhà kinh doanh thành đạt đều phải xuất phát từ đòi hỏi của khách hàng, bảo đảm chất lượng hàng hoá, giá cả phù hợp và có dịch vụ tối ưu. Cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả từng bước nhường chỗ cho cuộc cạnh tranh bằng dịch vụ. Từ chỗ dịch vụ chỉ là hoạt động yểm trợ bán hàng đã phát triển thành địa hạt của các nhà đầu tư kinh doanh. Ngành kinh doanh dịch vụ ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền sản xuất xã hội

Bốn là, thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa. Đó là tín hiệu tốt lành với nền kinh tế vì nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh Việt Nam, đồng thời nó cũng tạo ra áp lực và nguy cơ lớn cho sản xuất và kinh doanh trong nước. Điều này cũng cho thấy rằng sự hội nhập của thị trường trong với thị trường khu vực và quốc tế là tất yếu. Vấn đề là chủ động đón nhận và có phương thức ứng xử thích hợp để chuyển từ ngoại lực thành nôị lực. Trong điều kiện hiện tại của nước ta vấn đề chiếm lĩnh thị trường nội địa, chính sách thay thế hàng nhập khẩu có vị trí đặc biệt quan trọng. Do chính sách của nền kinh tế, hàng hoá ngoại nhập tràn ngập thị trường nội địa. Hàng ngoại đang có ưu thế so với hàng sản xuất trong nước. Thêm vào đó là sự yếu kém về chất lượng, giá cả, quy cách, chủng loại của hàng nội địa và tâm lý sùng bái hàng ngoại đã làm cho hàng nội yếu thế. Đây là nguy cơ làm cho hàng loạt chủ thể kinh doanh trong nước bị phá sản và nhiều mặt hàng sản xuất trong nước mất thị phần ngay trên đất nước minih khi nước ta thực hiện AFTA/CEPT vào năm 2006, tham gia APEC và WTO

Năm là, thị trường quốc tế của VIệt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất

Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm gần đây. Chính sách mở cửa nền kinh tế, phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 châu lục, trong đó xuất khẩu tới 219 nước, nhập khẩu từ 151 nước; có 151 nước Việt Nam xuất siêu, 70 nước Việt Nam nhập siêu. Quy mô xuất khẩu liên tục tăng và năm 2003 đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ở mức cao. Năm 2000 tăng 25,5% so với năm 1999, năm 2001 tăng 3,8%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 19%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng liên tục: năm 2000 đạt 186,6 USD/người; năm 2001 là 191 USD/người; năm 2002 là 209,5 USD/người; năm 2003 là 246,4 USD/người. Mặt hàng xuất khẩu được mở rộng về danh mục chủng loại, tăng quy mô về lượng và thay đổi cơ cấu tích cực, chất lượng hàng xuất khẩu được nâng cao

Điểm nổi bất trong xuất khẩu của Việt Nam những năm qua là đã xuất khẩu đến được thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã có tiếng trên thị trường quốc tế

Sáu là, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường. Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hạot động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Bộ máy quản lý Nhà nước về thị trường, thương mại đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, hiệu quả. Các thủ tục hành chính cản trở, gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ. Dù những đổi mới trên đây còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng những tác động tích cực cuả những thay đổi đó với thị trường đã thấy rõ và đặt ra sự đòi hỏi cấp thiết hơn

Bảy là, trên thị trường đang tồn tại những ách tắc và mâu thuẫn lớn. Nói chung thị trường hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam mới bước đầu hình thành và trình độ còn thấp. Về cơ bản thị trường vẫn là manh mún, phân tán và nhỏ bé. Sức mua còn thấp. Hàng hoá bị ứ đọng khó tiêu thụ đang là bài toán khó đối với Nhà nước, với doanh nghiệp. Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém phẩm chất lưu thông tràn lan trên thị trường đang là vấn đề báo động đỏ. Thị trường các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa chậm phát triển và không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.

Thị trường xuất khẩu phát triển nhưng không ổn định, thiếu bền vững, khả năng cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh của doanh nghiệp còn ở mức thấp. Sự tập trung quá mức vào một vài thị trường nên khi có bất ổn ở đây thì lúng túng và khó khăn trong xuất khẩu. Tình trạng nhập siêu lớn và tốc độ gia tăng cao. Tỷ trọng hàng tinh chế còn thấp và tăng chậm, hàng xuất khẩu ở dạng sơ chế còn chiếm tỷ trọng cao, nhiều hàng hoá xuất khẩu chủ lực chủ yếu theo phương thức gia công. Do đó giá xuất khẩu thấp và heieụ quả xuất khẩu thấp.

Sự chậm trễ và thiếu đồng bộ trong ban hành các chính sách kinh tế đã làm trầm trọng thêm những khuyết tật của thị trường. Sự kết hợp điều tiết của Nhà nước và điều tiết của thị trường chưa thật linh hoạt, nhạy bén đã gây ra những cơn sốt trên thị trường. Thị trường hàng hoá, dịch vụ ở nước ta vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát và bất ổn. Những vấn đề trên đòi hỏi phải có các giải pháp quyết liệt và đồng bộ để cho thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển ổn định, bền vững. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ nước ta những năm tới

1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá: Đây là biện pháp rất cơ bản để thúc đẩy phát triển thị trường. Phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung chuyên môn hoá cao vào các ngành có lợi thế so sánh. Nghiên cứu lựa chọn sản phẩm có lợi thế so sánh của quốc gia, của từng địa phương và từng ngành để xây dựng chiến lược phát triển. Bố trí nghiên cứu các thông tin về thị trường đầu ra, khả năng cạnh tranh. Tránh tình trạng làm phong trào, tràn lan như thời gian qua.

2. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và tri thức khoa học công nghệ cho thương mại, dịch vụ. Đây là nền tảng để phát triển thị trường cả trong nước và quốc tế. Ưu tiên đầu tư hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và xây dựng chợ, trung tâm thương mại. Bảo đảm cơ sở hạ tầng tốt cho lưu thông hàng hoá thông suốt, thuận lợi và nhanh chóng. Chính điều này sẽ góp phần chuyển biến cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng năng động, hiệu quả. Để phát triển kết cấu hạ tầng phải có chính sách hợp lý để thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài nước.

3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại. Cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm và phối hợp giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, nhà kinh doanh trong công tác thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế). ở tầm vĩ mô Nhà nước cần đầu tư nâng cao chất lượng dự báo thị trường và phát triển thương mại của Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại và một số Bộ, địa phương trọng điểm. Đặc biệt là vấn đề dự báo dài hạn và hàng năm để giúp các doanh nghiệp định hướng kinh doanh và cảnh bảo thị trường.

4. Hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, tự do hoá thương mại. Triệt để tuân thủ nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những thứ mà luật pháp cho phép và luật pháp không cấm. Thường xuyên rà soát hệ thống luật pháp hiện hành để bảo đảm tính hệ thống tính pháp lý và môi trường thông thoáng cho các chủ thể kinh doanh. Đồng thời phải nghiêm trị các hành vi vi phạm luật thương mại nhất là buôn lậu, hàng rởm và hàng giả.

5. Tổ chức hệ thống kinh doanh thương mại hợp lý trên cơ sở đa thành phần kinh tế và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng. Phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất với lưu thông. Chủ động điều tiết khối lượng cung cho phù hợp với cầu thị trường. Hướng tới sản xuất và bán hàng theo yêu cầu thị trường.

6. Chủ động và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế. Tiếp tục chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc té của Việt Nam. Tích cực đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với các nước và tổ chức kinh tế quốc tế. Tạo lập môi trường và điều kiện để sớm gia nhập tổ chức thương mại quốc tế.

7. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống quản lý Nhà nước đối với thị trường và thương mại. Đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia. Coi trọng khâu đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài trong kinh doanh và quản lý thị trường, thương mại. Nâng hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với thương mại, dịch vụ.

8. Việt Nam là nước có tốc độ phát triển kinh tế cao trong những năm qua. Phát triển nhanh và bền vững kinh tế xã hội là mục tiêu chiến lược. Sự phát triển mạnh mẽ và ổn định của thị trường hàng hoá, dịch vụ là yếu tố quan trọng để thực hiện được mục tiêu nói trên

Công ty luật Minh Khuê (biên tập)