Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đống Đảng – Tin tức, đọc báo, sự kiện
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng không chỉ là một quy luật tất yếu, mà còn là sự vận động và phát triển của Đảng trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, gắn kết với nhau. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt, mang tầm chiến lược mà còn là công việc thường xuyên của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng đòi hỏi Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, hiểu rõ phong trào cách mạng Việt Nam. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng còn đòi hỏi Đảng kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát triển và thực hành dân chủ rộng rãi, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện “Đảng với dân một ý chí”. Xây dựng Đảng phải gắn kết với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết thống nhất trên cơ sở tự phê bình và phê bình, trở thành một Đảng “vừa đạo đức, vừa văn minh”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo, được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề căn bản là, trong Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”1.
Đánh giá chung về công tác xây dựng Đảng, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ”2. Trong tình hình hiện nay, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn và có hiệu quả, Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập, hợp tác với các nước theo tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, vì vậy, Đảng càng cần có ý thức sâu sắc về sự tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng xây dựng tổ chức phù hợp với điều kiện mới, nâng cao trình độ trí tuệ và phẩm chất mọi mặt của mình.
Với cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng phải xứng danh là người lãnh đạo, phải là một Đảng trí tuệ, đạo đức, văn minh. Là thành viên của hệ thống chính trị, Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không được đứng trên, đứng ngoài pháp luật; không được đứng trên Nhà nước và nhân dân. Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; chống mọi biểu hiện tiêu cực của bộ máy nhà nước, như bệnh quan liêu, lãng phí, tham nhũng; xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Uy tín này chủ yếu nằm ở đạo đức cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ; ở sức cảm hóa, thuyết phục nhân dân, với tinh thần hiểu dân, học dân, hỏi dân, tin dân, thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Người chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”3. Theo Bác, muốn như vậy, một trong những biện pháp cơ bản là Đảng phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đây là công việc thường xuyên; Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng, một mặt, khẳng định sức mạnh chính trị to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng cương vị của Đảng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn làm cách mạng giành chính quyền, cần có nhiều yếu tố, song nhân tố quan trọng quyết định nhất là phải có Đảng chân chính của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Đặc biệt, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, Người nhấn mạnh, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là việc trước tiên, việc chính, việc cần kíp, việc phải làm ngay.
Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên trong bất kỳ môi trường xã hội nào luôn chịu sự tác động của những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Để loại bỏ cái xấu, cái dở cần phải rèn luyện thường xuyên, trong đó biện pháp quan trọng là đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chỉnh đốn Đảng là để cán bộ, đảng viên khi gặp khó khăn thì củng cố quan điểm, lập trường, tư tưởng, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan, không chủ quan, tự mãn. Chỉnh đốn, xây dựng Đảng là để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, làm cho Đảng mạnh lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”4.
Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất phong phú, đa dạng. Người nêu rõ phương châm từng bước, có trọng tâm, có kế hoạch rõ ràng. Chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng phải làm toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải được tiến hành ở tất cả các cấp. Trong đó, đặc biệt coi trọng làm tốt ở chi bộ, vì chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Người cho rằng: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”5. Người còn chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”6.
Một nội dung quan trọng nữa trong xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là xây dựng đội ngũ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, nhưng toát lên những nội dung bản chất nhất: Một là, đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Quá trình phấn đấu đó là bền bỉ, liên tục. Hai là, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết, biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm lợi ích cho Đảng. Ba là, đảng viên phải có đời tư trong sáng, là một tấm gương mẫu mực để mọi người noi theo.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến trách nhiệm và tư cách đảng viên. Tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt là, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết và ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện, học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được tốt hơn.
Trung thành với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng là yêu cầu tất yếu khách quan, là quy luật vận động, phát triển của Đảng. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng đã có nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề cập đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá những mặt đã đạt được và chưa đạt được của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về: chính trị, tư tưởng và tổ chức; công tác cán bộ; xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua vẫn còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm về: giáo dục chính trị tư tưởng, công tác cán bộ, công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, trong kiện toàn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Chất lượng hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao, trong thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng khâu yếu vẫn là tự phê bình và phê bình. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”7. Đảng ta chỉ rõ: Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách8. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi”9; nhiều đảng viên và tổ chức đảng tính chiến đấu chưa cao, nhất là ở tổ chức cơ sở đảng. Việc xây dựng quy chế và hoàn thiện quy chế theo hướng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn yếu và có nhiều lúng túng. Trước thực trạng như vậy, càng đặt ra sự cần thiết phải coi trọng, đẩy mạnh và quyết tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục cho được sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; từ đó, góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Để thực hiện nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Trước hết, thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ tư tưởng của Đảng
Công tác giáo dục phải làm cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng ăn sâu, bám chắc vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền tảng của sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, ra sức tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Hai là, ra sức học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong đó tập trung bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực tư duy, hoạt động thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Khắc phục triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí, phai nhạt lý tưởng, thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… Đảng ta xác định việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là chế độ bắt buộc, là tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên.
Ba là, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng
Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI, XII và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng. Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ: Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu đồng bộ, kiên quyết, hiệu quả thấp10. Do vậy, việc không ngừng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức là nhiệm vụ rất quan trọng. Đảng ta yêu cầu: Trong quá trình tự phê bình và phê bình cần tập trung làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và kiểm điểm về đạo đức, lối sống; nói đi đôi với làm của cán bộ, đảng viên do yêu cầu rất cao của đợt tự phê bình và phê bình lần này, cũng như những khó khăn, trì trệ, xem nhẹ lâu nay trong tiến hành tự phê bình và phê bình, trước khi kiểm điểm có những hình thức phù hợp để lấy ý kiến góp ý, gợi ý kiểm điểm, kể cả trong tập thể và cá nhân từng đảng viên.
Bốn là, chỉnh đốn phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, tăng cường công tác kiểm tra
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉnh đốn phong cách, lề lối làm việc là một yêu cầu có tính cấp bách đối với hoạt động lãnh đạo của một đảng cầm quyền ra đời ở một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến như Đảng ta. Bởi vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên các cấp của Đảng, Chính phủ và đoàn thể phải chỉnh đốn tác phong công tác, phong cách và lề lối làm việc. Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Người đã nhấn mạnh: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”11. Người yêu cầu cán bộ phụ trách ở Trung ương “cần thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít…”12; làm việc gì cũng phải có tổ chức tốt, lãnh đạo phải sâu sát thực tế; lề lối làm việc phải dân chủ, cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy Nhà nước trong sạch, thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nâng cao được hiệu lực quản lý của Nhà, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ. Đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
BTST – Thượng tướng, Viện sĩ, TS. Nguyễn Huy Hiệu
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
(Theo Tạp chí Cộng sản)
———————-
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr. 510.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 186.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 12, tr. 510.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 5, tr. 261.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.11, tr. 23
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.11, tr. 261
(7) (8) (9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 217, 184, 185, 198.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 480.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr. 20.