Thời trung đại trong văn học các nước khu vực văn hóa chữ Hán
“Khu vực văn hóa chữ Hán” là một khái niệm được sử dụng rộng rãi để chỉ khu vực gồm các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa từ sớm và lâu dài như: Việt Nam, bán đảo Triều Tiên (Triều Tiên- Hàn Quốc), Nhật Bản, và tất nhiên trung tâm là Trung Quốc.
Người ta cũng có dùng một khái niệm tương tự là “khu vực văn hóa Đông Á”, tuy nhiên phải hiểu khái niệm này không phải là để chỉ một khu vực địa lý với nghĩa khu biệt với Đông Nam Á, Nam Á, Trung Cận Đông…, mà là một khu vực văn hóa với trung tâm là Trung Quốc đã hút nhiều nền văn hóa xung quanh, kể cả những nền văn hóa thuộc khu vực địa lý khác vào mình, như trường hợp Việt Nam, một đất nước thuộc khu vực địa lý Đông Nam Á chẳng hạn. Người ta cũng gọi khu vực văn hóa này bằng một cái tên khác: “Khu vực Trung Hoa hóa”, tuy nhiên cách gọi ấy gợi đến những cách nghĩ có vẻ “thực dân” nên ít được sử dụng rộng rãi. Vì vậy cách gọi ổn hơn cả về khu vực này là “Khu vực văn hóa chữ Hán” (Tiếng Hán: Hán tự văn hóa quyển, Tiếng Nhật: Kanji bunka ken). Khu vực văn hóa chữ Hán hình thành từ thời cổ đại và gắn bó với nhau, tạo thành một khu vực văn hóa riêng biệt chủ yếu trong thời trung đại. Trong bài viết này chúng tôi thử phác họa một bức tranh toàn cảnh, theo kiểu so sánh loại hình về những vấn đề chung trong lịch sử văn học trung đại các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên – Hàn Quốc và Việt Nam.
I. THỜI TRUNG ĐẠI VÀ SỰ HÌNH THÀNH KHU VỰC VĂN HÓA CHỮ HÁN
1. “Thời trung đại”
“Trung đại” là một thuật ngữ của khoa học lịch sử phương Tây để chỉ một thời đại nằm giữa thời cổ đại và thời cận đại, có nghĩa là giai đoạn lịch sử gắn liền với chế độ phong kiến. Thuật ngữ “Văn học trung đại” được dùng khá phổ biến ở Việt Nam trong vòng vài chục năm trở lại đây (1), thay cho khái niệm tương tự: văn học thời “Trung cổ” hay “Trung thế” (kể cả “Trung thế kỷ” như cách dịch trong một công trình của N.Konrat (2)), tuy cũng không phải đồng nhất hoàn toàn. Một trong những nghĩa khác của “Trung cổ” hay “Trung thế” là chỉ một giai đoạn trong văn học thời phong kiến mà thôi. Ví dụ: Konrat gọi giai đoạn từ TK.III tr.CN đến TK.VII s.CN ở Trung Quốc là “Trung thế kỷ”, nghĩa là từ khi thành lập đế chế Hán đến trước thời Phục hưng của Trung Quốc (đời Đường). Quách Thiệu Ngu gọi giai đoạn từ thời Kiến An (TK.III) đến hết Ngũ đại (TK.X) là “Trung cổ” (3). Còn trong đa số sách lịch sử văn học Nhật Bản, người ta hay dùng thời “Trung thế” để chỉ giai đoạn văn học từ cuối TK.XII đến cuối TK.XVI (thời Kamakura và Muromachi). Bên cạnh đó cũng có không ít công trình dùng “Trung đại”, “Trung thế” để chỉ cả một thời kỳ lịch sử lâu dài của phương Đông dưới thời phong kiến, như Trung Quốc tư tưởng sử cương của Hầu Ngoại Lư (4), Nhật Bản văn học sử của Konishi Jin-ichi (5) hay như nhiều công trình về lịch sử thế giới khác.
Chúng tôi quan niệm rằng ở các nước Phương Đông, do phương thức sản xuất châu Á, nên chế độ phong kiến kéo dài và chưa phát triển đến cực điểm của nó. Vì thế trong lịch sử trung đại có những giai đoạn phát triển mang tính chất Phục hưng, nhưng thời Phục hưng thật sự thì chưa ra đời. Vì vậy, theo chúng tôi, nên gọi những giai đoạn ấy là “Hậu kỳ trung đại”, có tính chất “Tiền Phục hưng”, chứ chưa phải Phục hưng thật sự. Cũng vì lý do đó, nên trong bài viết này chúng tôi sử dụng thuật ngữ “Văn học trung đại” để chỉ toàn bộ văn học khu vực trong xã hội phong kiến, tức là từ khi xã hội phong kiến bắt đầu cho đến khi chấm dứt trước cuộc xâm lăng của các nước đế quốc phương Tây vào giữa TK.XIX.
2. Sự bùng nổ của văn minh Hán và sự hình thành “Khu vực văn hóa chữ Hán”
Khu vực văn hóa chữ Hán hình thành từ khá lâu, trong đó các dân tộc đã giao lưu từ sớm, tạo thành một “thế giới” riêng, mà giới trí thức ngày xưa gọi là các nước “Đồng văn” (cùng một chữ viết – chữ Hán). Số phận các nước Đồng văn này gắn bó chặt chẽ với nhau cho đến tận thời cận đại. Tuy nhiên sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, khu vực này bị chia làm đôi vì những lý do chính trị, nên nó không còn phát triển giống nhau nữa. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, giới nghiên cứu lại quay lại tìm hiểu các nước Đồng văn này với khái niệm “Khu vực văn hóa chữ Hán”, mà Hội nghị Quốc tế về Nho giáo lần thứ 2 tổ chức tại Yokohama (Nhật Bản) năm 1991 là một ví dụ tiêu biểu (6).
Thế nhưng Khu vực văn hóa chữ Hán (còn gọi là Khu vực văn hóa Đông Á) với các nước: Trung Quốc, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam không phải có ngay từ thời tiền sử, thậm chí đến cả trước đời Hán cũng chưa có. Cho đến khi nhà Tần (221 – 206 tr.CN) thống nhất Trung Quốc thì những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mới bắt đầu có điều kiện để lan tỏa ra các nước xung quanh. Triều đại nhà Hán (206 tr.CN – 220 sau CN) là triều đại hưng thịnh nhất so với các triều đại từ trước đến bấy giờ, đế quốc Hán là đế quốc hùng mạnh nhất thế giới đương thời. Sự bùng nổ của nền văn minh triều Hán đã tạo điều kiện hình thành khu vực văn hóa Đông Á – “Khu vực văn hóa chữ Hán”.
Vào cuối thế kỷ IV – đầu TK.III tr.CN, nước Yên, rồi nhà Tần xâm chiếm các vùng đất phía bắc của nhà nước Triều Tiên cổ đại. Sau đó Vệ Mãn/ Wiman thành lập nhà nước Vệ Mãn Triều Tiên độc lập, tổ chức theo mô hình Trung Hoa. Năm 108 tr.CN nhà Hán chinh phục quốc gia Vệ Mãn Triều Tiên do cháu nội của Vệ Mãn cầm quyền, rồi chia quốc gia ấy thành ba quận: Lạc Lãng/ Lolang, Chân Phiên/ Chenfan, Lâm Đồn/ Lintun, năm sau, lại đặt thêm một quận nữa là Huyền Thổ/ Hsuantu.
Trước khi tiếp xúc với nhà Hán, Nhật Bản có hơn 100 tiểu quốc, thường xuyên giao thiệp với quận Lạc Lãng phía bắc bán đảo Triều Tiên. Vào thế kỷ III vua nước Bách Tế (một trong ba nước tồn tại ở bán đảo Triều Tiên từ TK.III-TK.VII, nằm ở phía tây nam bán đảo này) dâng nhà nho Vương Nhân cùng với 10 cuốn Luận ngữ và Thiên tự văn cho Ứng Thần thiên hoàng. Việc ấy thường được người Nhật cho là sự kiện đánh dấu Nho giáo chính thức truyền vào Nhật Bản.
Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với Trung Hoa kể từ cuộc xâm lược của quân đội nhà Tần do Hiệu úy Đồ Thư chỉ huy. Sau đó nước Âu Lạc bị rơi vào tay Triệu Đà, vua nước Nam Việt. Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Vệ úy Lộ Bác Đức đem hơn 10 vạn binh đến xâm lược nước Nam Việt của con cháu Triệu Đà, chia đất Âu Lạc cũ thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Sự kiện ấy đã mở ra một thời kỳ dài trong lịch sử Việt Nam: 1000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong suốt thời kỳ ấy, văn hóa Trung Hoa ồ ạt truyền vào Việt Nam, tách Việt Nam ra khỏi khu vöïc văn hóa Đông Nam Á truyền thống, cuốn vào khu vöïc văn hóa chữ Hán với trung tâm là Trung Hoa. Như vậy kể từ đời Hán, Khu vực văn hóa chữ Hán với Trung Hoa, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đã hình thành.
II. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG DIỄN TRÌNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
Để miêu tả diễn trình văn học Đông Á có nhiều cách thức khác nhau, trong đó cách thức cổ điển nhất là miêu tả diễn trình ấy theo các triều đại. Như vậy thì văn học Trung Quốc có thể chia ra thành triều đại như: Hạ, Ân- Thương, Tây Chu, Đông Chu, Tần, Hán… cho đến Minh, Thanh.
Văn học Triều Tiên – Hàn Quốc có thể chia ra thành các thời:
– Triều Tiên/ Choson cổ đại: từ đầu đến TK.I tr.CN
– Tam quốc: 57 tr.CN – TK.VII
– Tân La/ Silla thống nhất: TK.VII – TK.X
– Thời Cao Ly/ Koryo: TK.X – TK.XIV
– Thời Triều Tiên/ Choson (vương triều Lý/ Yi): TK.XV – đầu TK.XX
Văn học Nhật Bản:
– Yamato / Đại Hoà: TK.IV – đầu TK.VIII
– Nara/ Nại Lương: TK.VIII
– Heian/ Bình An: cuối TK.VIII – cuối TK.XII
– Mạc phủ Kamakura/ Liêm Thương: cuối TK.XII – giữa TK.XIV
– Mạc phủ Muromachi/ Thất Đinh: giữa TK.XIV – cuối TK.XVI
– Azuchi-Momoyama/ An Thổ Đào Sơn: cuối TK.XVI – đầu TK.XVII
– Edo/ Giang Hộ: đầu TK.XVII – giữa TK.XIX
– Nhật Bản cận đại (Minh Trị, Đại Chính, Chiêu Hòa): 1868 – 1945…
Còn văn học Việt Nam thì như chúng ta đều biết: thời Hùng vương, thời Bắc thuộc (và chống Bắc thuộc), rồi Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê v.v.
Tuy nhiên miêu tả như thế sẽ thấy chúng rời rạc, không thấy được những đặc điểm chung cũng như quá trình phát triển của chúng. Vì vậy chúng tôi thấy cần thiết phải sử dụng một mô hình chung, phổ quát cho các nước. Mô hình này đối với từng nước cũng có rất nhiều tranh cãi, để trình bày về những quan niệm ấy cũng phải có một bài viết riêng, ở đây chúng tôi xin bỏ qua việc thuật lại những tranh cãi ấy, chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra mô hình chung cho văn học các nước Đông Á như sau:
Thời kỳ Văn học cổ đại:
Triều Tiên – Hàn Quốc: gồm các thời Triều Tiên cổ đại, Tam quốc, Tân La/ Silla thống nhất (từ đầu – cuối TK.X).
Nhật Bản: thời Yamato (TK.IV – đầu TK.VIII).
Việt Nam: từ thời Hùng Vương cho đến hết thời Bắc thuộc (từ đầu – TK.X).
Đây là thời kỳ phôi thai của văn học viết, văn học đi những bước đầu tiên chuẩn bị cho sự ra đời của nền văn học dân tộc. Văn học còn gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, các thể loại văn học chức năng chiếm địa vị quan trọng.
Thời kỳ Văn học trung đại:
Triều Tiên – Hàn Quốc: Từ đầu thời Cao Ly/ Koryo cho đến cuối thời Triều Tiên/ Choson (TK.X – cuối TK.XIX).
Nhật Bản: Từ thời Nara đến Minh Trị duy tân (TK.VIII – 1867).
Việt Nam: Từ thời Ngô (năm 938) đến cuối TK.XIX.
Đây là thời kỳ thời văn học gắn với xã hội phong kiến, thể hiện những đặc điểm điển hình nhất của văn học trung đại.
Thời kỳ Văn học cận đại:
Triều Tiên – Hàn Quốc: từ Phong trào Khai hoá cho đến Thế chiến II kết thúc (cuối TK.XIX – 1945)
Nhật Bản: từ Minh Trị Duy tân cho đến Thế chiến II kết thúc (1868 – 1945)
Việt Nam: Phong trào Duy tân cho đến Thế chiến II kết thúc (đầu TK.XX – 1945)
Đây là thời kỳ gắn với quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa giai đoạn đầu ở các nước.
Dưới đây chúng tôi xin chỉ đi sâu vào thời kỳ thứ hai: Thời kỳ văn học trung đại ở các nước Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc và Nhật Bản. Riêng với Trung Quốc, đây là nền văn học to lớn, hình thành từ rất sớm và có quá trình rất dài, phát triển theo những quy luật riêng, hơn nữa lại rất quen thuộc đối với những người nghiên cứu ngữ văn Phương Đông nên chúng tôi không nêu ra ở đây. Thời kỳ văn học trung đại ở các nước Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản có thể chia ra làm 3 giai đoạn: Sơ kỳ trung đại, Trung kỳ trung đại và Hậu kỳ trung đại với những đặc điểm khác nhau rất rõ nét giữa 3 giai đoạn ấy.
1. Sơ kỳ trung đại:
Sơ kỳ trung đại của Nhật Bản bao gồm hai thời Nara (TK.VIII) và Heian (TK.IX – TK.XII)(7). Năm 710 triều đình thiên đô về Nara/ Nại Lương, bắt đầu thời kỳ định đô, tức là xây dựng chế độ phong kiến tập quyền mạnh mẽ. Triều đình liên tục cử nhiều đoàn “Khiển Đường sứ” (Sứ thần phái sang nhà Đường), tức là lưu học sinh sang Trung Quốc học tập. Trong thời Heian, giai đoạn thiên hoàng có quyền lực thực sự rất ngắn ngủi, chừng nửa thế kỷ, còn lại 250 năm quyền lực rơi vào tay dòng họ quý tộc nhiếp chính Fujiwara/ Đằng Nguyên. Nền văn minh Nhật Bản thời này chỉ dường như tập trung ở Kyoto/ Kinh đô, và cụ thể hơn là ở cung đình.
Sơ kỳ trung đại của Triều Tiên là thời Cao Ly (TK.X – cuối TK.XIV). Năm 918 Vương Kiến/ Wang Kon lên làm vua, đã mở ra một thời đại mới trên bán đảo Triều Tiên: thời đại thống nhất dưới chế độ phong kiến tập quyền. Vương Kiến đặt tên nước là Cao Ly/ Koryo và dời đô về Kaesong/ Khai Thành. Nhà nươc Cao Ly xây dựng trên cơ sở quyền lực của giới quý tộc, bao gồm hoàng tộc (họ Vương, quý tộc cũ của Silla), các dòng họ ngoại thích như họ Kim ở An Sơn, họ Lý ở Nhân Xuyên, và nhiều dòng quý tộc nhỏ ở địa phương nữa. Phật giáo phát triển mạnh mẽ, có tính chất “hộ quốc, hộ vương” (giúp nước, giúp vua) rất rõ. Triều Tiên đã áp dụng chế độ khoa cử như đời Đường từ đầu thời Cao Ly (năm 958 thời Quang Tông/ Kwangjong), tuy nhiên phải đến cuối thời Cao Ly (TK.XIV), Nho giáo mới thực sự trở thành một lực lượng mạnh, lấn át dần Phật giáo.
Sơ kỳ trung đại của Việt Nam là từ Ngô đến cuối vương triều Trần (TK.X – cuối TK.XIV). Cơ sở xã hội của các triều đại này là tầng lớp quý tộc trang viên. Phật giáo được triều đình ủng hộ, có vai trò hết sức quan trọng đối với triều đình trong giai đoạn đầu. Từ cuối đời Trần trở đi, tầng lớp nho sĩ lớn mạnh dần lên, trở thành trụ cột của triều đình. Vấn đề đặc biệt của Việt Nam là trong thời Sơ kỳ trung đại là việc phải liên tiếp đối đầu với các cuộc xâm lược lớn từ phương bắc xuống: nhà Ngô chống quân Nam Hán, nhà Tiền Lê, nhà Lý chống quân Tống, nhà Trần ba lần chống quân Nguyên.
Về văn học, văn học sơ kỳ trung đại của Nhật Bản có hai dòng chính: Thứ nhất là dòng văn học khẳng định độc lập dân tộc, khẳng định giá trị và bản sắc văn hóa Nhật Bản; Thứ hai là là dòng văn học viết về vẻ đẹp thiên nhiên và đời sống, tâm lý của người Nhật, nhất là tầng lớp quý tộc cung đình. Thành tựu của nó rất rực rỡ, có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu: Cổ sự ký (Kojiki), Nhật Bản thư kỷ (Nihonshoki), Vạn diệp tập (Manyôshù), các tập thơ chữ Hán: Hoài phong tảo (Kaifùsô) do Oumi no Mifune tuyển, hoàn thành vào giữa TK.VIII; Lăng vân tập (Ryôunshù) do nhóm Minemori tuyển, hoàn thành vào đầu TK.IX…
Trong số Khiển Đường sứ thành tài có nhà thơ Abe no Nakamaro. Nakamaro là quý tộc thời Nara (TK.VIII), du học Trung Quốc, rồi làm quan đời Đường, trở thành bạn thơ của Lý Bạch, Vương Duy, Hạ Tri Chương… Cuối đời trở về Nhật, trên đường đi gặp bão, lưu lạc đến tận vùng Hoan Châu của An Nam. Ông còn để lại bài thơ tanka nổi tiếng nói lên tâm sự thương nhớ quê hương, được sáng tác khi vừa dời khỏi Trường An:
Bầu trời bát ngát
Ngẩng đầu lên ngắm nhìn
Mảnh trăng kia có phải
Từ núi Mitaka, Kasuga quê ta
Mọc lên.(8)
Văn học bằng tiếng Nhật phát triển mạnh mẽ trong đó nổi lên là vai trò của phụ nữ quí tộc với những tác phẩm thể hiện xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, về nỗi buồn và về cái đẹp. Xúc cảm ấy người Nhật gọi là “Mono no aware” (bi cảm Nhật Bản), đã trở thành đặc trưng truyền thống của mĩ cảm Nhật Bản. Những tác phẩm nổi bật trong giai đoạn này là: Tập thi tuyển Cổ kim Hòa ca tập (Kokin waka shù) do Ki no Tsurayuki biên soạn, Hậu soạn Hòa ca tập (Gosen waka shù); Tân cổ kim Hoà ca tập (Shin kokinshu), Truyện chàng Genji (Genji monogatari – Nguyên thị vật ngữ) của nữ sĩ Murasaki Shikibu, Chẩm thảo tử (Makura no soshi/ Ghi chép để dưới gối) của Sei Shonagon… Việc sưu tầm truyện kể trong dân gian bắt đầu được chú ý tới, thành quả của nó là các tập truyền thuyết Phật giáo Nhật Bản linh dị ký của sư Keikai/ Cảnh Giới, bộ truyền thuyết Phật giáo và thế tục lớn nhất Nhật Bản Kim tích vật ngữ của các nhà sư vùng Nara (trung tâm là chùa Đông Đại tự / Tôdaiji).
Văn học sơ kỳ trung đại Triều Tiên thực sự chỉ còn lưu giữ được những tác phẩm từ khoảng TK.XII trở đi. Chủ đề đất nước – thiên nhiên và con người là hai chủ đề chính trong giai đoạn này. Nền văn chương chủ đạo vẫn là văn chương viết bằng Hán văn, trong đó thơ chữ Hán được sử dụng rất phổ biến. Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-po là nhà thơ lớn nhất cuối thời Cao Ly, ông nổi danh với bài trường ca về người anh hùng dựng nước Cao Câu Ly: Đông Minh vương thiên / Tongmyong wang p’yon và nhiều bài thơ nói lên nỗi thống cổ của nhân dân dưới ách thống trị của quân Mông Cổ. Văn xuôi Hán văn phát triển mạnh từ cuối thời Cao Ly với các truyện: Khổng Phương truyện của Lâm Xuân/ Im Chun, Khúc tiên sinh truyện của Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-bo, Trúc phu nhân truyện của Lý Cốc/ Yi Kok, các tập tạp văn, nhàn đàm như: Phá nhàn tập của Lý Nhân Lão/ Yi Il-lo, Bạch Vân tiểu thuyết của Lý Khuê Báo/ Yi Kyu-bo…
Văn học sơ kỳ trung đại của Việt Nam có hai bộ phận: một là văn học khẳng định nền độc lập dân tộc của các nhà sư và quý tộc Lý-Trần, một nữa là văn học Thiền tông. Đến cuối đời Trần có thêm mảng thơ văn của các nho sĩ “ưu thời mẫn thế”. Ở bộ phận thứ nhất nổi lên hàng đầu là các tác phẩm: Thơ Thần (khuyết danh, Lý Thường Kiệt nhuận sắc), Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), thơ Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông…Văn học Thiền tông đạt được thành tựu nổi bật với thơ của các thiền sư thời Lý- Trần: Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác, Quảng Nghiêm, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Tung, Huyền Quang… Văn xuôi Hán văn có: Thiền uyển tập anh, tập truyện về các nhà sư theo từng dòng truyền thừa; Tam tổ thực lục là truyện về các nhà sư thuộc phái Trúc Lâm của Việt Nam; Việt điện u linh, sách ghi về sự tích các thần nổi tiếng của nước ta, có thể coi như một loại sưu tập “thần phả, thần tích” của đạo thờ thần của người Việt; Lĩnh Nam chích quái, sưu tập về các chuyện thần quái của nước ta, tương tự như sách Sưu thần ký của Trung Quốc, Kim tích vật ngữ của Nhật Bản.
2. Trung kỳ trung đại
Ở Triều Tiên, năm 1392 Lý Thành Quế chính thức lên ngôi, đổi tên triều đại của mình là Choson/ Triều Tiên theo tên cổ và dời đô về Hanyang/ Hán Dương (tức Seoul ngày nay). Trụ cột của triều Lý là tầng lớp “Lưỡng ban”, tức hai ban văn võ, là những dòng họ công thần đối với triều đình, trong đó văn được trọng hơn võ, và văn thì chủ yếu là những nho sĩ cấp cao theo Tân nho giáo của Chu-Trình, người ta gọi là “Sĩ đại phu/ Sadaebu”. Người đầu tiên đưa Tống nho vào Triều Tiên là An Dụ/ An Yu (1243-1306). Những môn đệ Tống nho của Triều Tiên đã làm dấy lên làn sóng bài xích Phật giáo khá mạnh mẽ. Những nhà tư tưởng danh tiếng nhất của Triều Tiên là: Lý Hoảng/ Yo Hwang (tức Lý Thoái Khê/ Yi Toegye, 1501-1570) được coi là Chu Hy của Triều Tiên và Lý Nhĩ/ Yi I ( tức Lý Lật Cốc/ Yi Yulgok, 1536-1584), triết gia đứng đầu trường phái “trọng Khí”. Cùng với sự phát triển của giáo dục và chế độ khoa cử, tầng lớp nho sĩ càng trở nên đông đảo hơn với sự bổ sung của giới “Sĩ lâm/ Sarim ” xuất thân từ làng quê.
Ở Việt Nam tình hình cũng diễn ra tương tự. Cuối đời Trần, từ khoảng giữa TK.XIV trở đi, tầng lớp nho sĩ đã trưởng thành nhanh chóng, Nho giáo của Chu văn An và các học trò trung thành của ông là một thứ nho giáo hoàn toàn khác với Nho giáo trong Tam giáo trước đó. Nho giáo trong Tam giáo là một học thuật tự do, tương tự như Nho giáo đời Đường, còn Nho giáo của Chu Văn An là Tân Nho giáo, tức Tống nho. Với bộ sách Tứ thư thuyết ước của mình, Chu Văn An thực sự là người đầu tiên đưa cái học của Chu Hy, tức Tống Nho vào Việt Nam. Những kẻ sĩ đại phu làm vang danh cho nền Nho học Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan…
Tình hình Nhật Bản hơi khác. Trung kỳ trung đại của Nhật Bản có thể kể từ khi giới quân sự lên nắm chính quyền: dòng họ Minamoto trở thành Tướng quân/ Shôgun, mở Mạc phủ ở Kamakura/ Liêm Thương từ năm 1192 cho đến hết thời Chiến quốc/ Sengoku (năm 1573). Nhân vật trung tâm của xã hội không phải là quý tộc như trước nữa mà là tầng lớp vũ sĩ. Nhật Bản không áp dụng chế độ khoa cử để tuyển dụng quan lại mà vẫn theo chế độ thế tập với quyền lực nằm trong tay giới quân sự ở trung ương và các lãnh chúa địa phương, nên tầng lớp nho sĩ không phát triển được. Trụ cột tinh thần của đất nước vẫn lả các trí thức Phật giáo. Các tông phái Tịnh Độ tông, Tịnh độ chân tông, Nhật Liên tông và Thiền tông phát triển mạnh, thu hút giới võ sĩ và thứ dân.
Văn học trung kỳ trung đại ở Nhật Bản vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo, bên cạnh đó văn học viết về đạo đức của giới quân nhân cũng được chú ý, trong đó lòng trung thành, cốt lõi tinh thần của chế độ mạc phủ được quan tâm đặc biệt. Các bộ tiểu thuyết trường thiên về chiến tranh gọi là “truyện quân ký” (gunki monogatari/ quân ký vật ngữ), có thể coi nó như những anh hùng ca chiến trận, rất được võ sĩ và thứ dân yêu thích, như: Bình gia vật ngữ (Heike monogatari), Bình Trị vật ngữ (Heiji monogatari), Thái bình ký (Taiheiki)…Cảm hứng chung của loại truyện quân ký này là cảm hứng về cái vô thường của vinh hoa và quyền lực – một cảm quan có tính cách Phật giáo.
Tuồng nô (chữ Hán viết là Năng), một loại hình sân khấu truyền thống của Nhật Bản phát triển rất mạnh vào giai đoạn này. Tuồng nô lấy cảm hứng từ cái vô thường của Phật giáo. Zeami/ Thế A Di là người có công đầu về nô, ông chủ trương đưa cái Öu nhaõ trở thành phạm trù mỹ học hàng đầu của nô. Điều ấy được phát biểu trong sách Phong tư hoa truyện (Fùshikaden) viết vào đầu thế kỷ XV, một công trình lý luận bậc nhất về loại hình nghệ thuật này.
Giai đoạn trung kỳ trung đại trong văn học Triều Tiên có thể nói là thời của tầng lớp Sĩ đại phu/ Sadaebu. Hàng loạt các bộ sử được viết ra để ca tụng triều đại Lý và để củng cố lòng trung thành của sĩ dân đối với triều đình: Thái Tổ thực lục, Triều Tiên vương triều thực lục, Xuân thu quán, Cao Ly sử… Loại ca nhạc gắn với thơ gọi là “Nhạc chương” thể hiện rõ tính chất tụng ca của thể loại này, nổi bật là các tác phẩm: Tân đô ca/ Sindo ka của Trịnh Đạo Truyền/ Chong To-jon, Long phi ngự thiên ca/ Yongbi ochon ka của Trịnh Lân Chỉ/ Chong In-ji v.v. Tuyển tập vĩ đại nhất về thơ văn chữ Hán của người Triều Tiên là bộ Đông văn tuyển / Dongmun son do Từ Cư Chính/ So Ko-jong biên tập hoàn thành vào năm 1478.
Văn tạp ký, nhàn đàm của các nhà nho phát triển mạnh, đáng chú ý là các tác phẩm: Bút uyển tạp ký của Từ Cư Chính/ So Ko-jong, Dung Trai tùng thoại của Thành Hiện/ Song Hyon, Bại quan tạp ký của Ngư Thúc Quyền/ O Suk-kwon. Tập truyện truyền kỳ Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh được truyền đến Triều Tiên từ rất sớm, từ đó Kim Thời Tập/ Kim Si-sup đã phóng tác ra thành tập truyện truyền kỳ Triều Tiên: Kim Ngao tân thoại/ Kum o sinhwa. Tác phẩm này cũng được coi là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của văn học Triều Tiên.
Sự kiện văn hoá quan trọng vào đầu triều Lý là việc vua Lý Thế Tông/ Yi Se-jong và các cộng sự của ông đã phát minh ra hệ thống chữ viết Hàn ngữ/ Hangul (gọi đầy đủ là “Huấn dân chính âm/ Hunmin chongum, ban hành năm 1446) để ghi âm Triều Tiên. Hệ thống chữ viết Hangul tuy không được tầng lớp “lưỡng ban” là các sĩ đại phu và võ quan cao cấp ủng hộ, nhưng lại rất được dân chúng, nhất là phụ nữ quý tộc, con gái các gia đình “lưỡng ban” – những người có học vấn Hán học kém uyên thâm hơn – yêu thích. Họ dùng Hangul để viết thư từ và sáng tác thơ ca, chính họ là những người mẹ khai sinh ra dòng văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc, tạo điều kiện cho giai đoạn nở hoa của bộ phận văn học này tiếp theo.
Hai thể thơ dân tộc là Sijo/ Thời điệu và Kasa/ Ca từ đều xuất hiện vào cuối giai đoạn Cao Ly/ Koryo (Sơ kỳ trung đại), nhưng phải đến giai đoạn Triều Tiên/ Choson (Trung kỳ trung đại) mới thực sự phát triển. Kasa/ ca từ có thể coi như một loại từ khúc của người Triều Tiên. Nhà thơ kasa nổi danh nhất giai đoạn này là Trịnh Triệt/ Chong Chol (1536-1593), tác giả của những bài kasa bất hủ: Quan Đông biệt khúc, Tư mỹ nhân khúc, Tục mỹ nhân khúc… Thể thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn dân tộc Triều Tiên là sijo/ thời điệu, với tên tuổi của các nhà thơ: Lý Hoảng/ Yo Hwang (1501-1570), Lý Nhĩ/ Yi I (1536-1584), Phác Nhân Lão/ Pak Il-lo (1561-1643), Thân Khâm/ Sin Hum (1566-1628), và nhất là nữ sĩ Hoàng Chân Y/ Hwang Chin Y(1506-1544) và nhà thơ Doãn Thiện Đạo/ Yun Son-do (1587-1671), hai thi sĩ đã đưa thể thơ này lên đến đỉnh cao. Kasa và sijo trung kỳ trung đại thường đề cao lòng trung quân, có ý khuyên răn đạo đức, hay thể hiện nỗi thống khổ của nhân dân trước cuộc chiến tranh xâm lược của Mãn Châu và Nhật Bản. Bên cạnh đó là những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp bất tuyệt của thiên nhiên và khát khao muốn tìm nơi an trú trong ấy.
Văn học trung kỳ trung đại ở Việt Nam là giai đoạn văn học của các nhà nho – “kẻ sĩ quân tử”(9). Cũng có thể gọi các nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, các nhà thơ trong Tao đàn thời Hồng Đức, rồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan…là các “sĩ đại phu” tương tự như sĩ đại phu thuộc tầng lớp “lưỡng ban” dưới thời Choson của Hàn Quốc. Tụng ca là tính chất nổi bật của văn học TK.XV với vai trò không thể thiếu được của thể phú: ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, ca ngợi dân tộc, ca ngợi hoàng đế anh minh. Đó là các bài: Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi; Chí Linh sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Tẩy binh vũ phú, Nghĩa kỳ phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Bút trận phú, Huân phong cầm phú, Xuân đài phú…của Nguyễn Mộng Tuân; Chí Linh sơn phú, Xương giang phú, Quảng cư phú… của Lý Tử Tấn, và cả bài “đại phú” Lam Sơn Lương Thuỷ phú của ông vua hay chữ Lê Thánh Tông.
Văn chương ca tụng thú điền viên, ẩn dật thì phải kể đến thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú của Nguyễn Công Hãng (Tịch cư ninh thể phú)… Thể thơ Hàn luật (hay còn gọi là Thất ngôn xen lục ngôn) của kẻ sĩ quân tử trong giai đoạn này phát triển lên đến đỉnh cao. Chữ Nôm được dùng trong sáng tác văn học với những tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm… Hai thể thơ dân tộc khác hình thành vào giai đoạn sau của Trung kỳ trung đại cũng đã có thành quả với Thiên Nam ngữ lục bằng thể lục bát và Thiên Nam minh giám bằng thể song thất lục bát.
Truyện truyền kỳ được mở đầu bằng tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, mà chúng ta còn thấy rất giống với những người anh em của nó ở Trung Quốc và Triều Tiên: Tiễn đăng tân thoại và Kim Ngao tân thoại. Sau khi Truyền kỳ mạn lục ra đời được ít lâu, Nguyễn Thế Nghi đã dịch tập truyện này ra tiếng Việt với tên gọi Tân biên Truyền kỳ mạn lục.
3. Hậu kỳ trung đại:
Hậu kỳ trung đại Nhật Bản được đánh dấu rõ ràng nhất là từ thời Edo(10). Tướng quân Tokugawa/ Đức Xuyên chiến thắng các thế lực khác, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ thái bình, ổn định lâu dài hơn 250 năm cho nước Nhật (từ 1602 đến giữa TK.XIX). Đây là thời kỳ Nho giáo được suy tôn thay cho Phật giáo. Ngoài Chu Tử học phái có tính chất chính thống của Mạc phủ, Nho học thời kỳ Edo còn có nhiều học phái khác nữa mâu thuẫn rất gay gắt với tư tưởng Chu Tử, như Dương Minh học phái do Nakae Toju/ Trung Giang Đằng Thụ (1608 – 1648), Cổ học phái do Ito Ninsai/ Y Đằng Nhân Trai (1627 – 1705) và phái Công lợi do Ogiyu Sorai/ Địch Sinh Tồ Lai (1666-1728) đứng đầu. Bên cạnh Nho giáo, một số học giả chủ trương nghiên cứu về học thuật riêng của Nhật Bản, gọi là phái Quốc học, đứng đầu là Moto-ori Norinaga/ Bản Cư Tuyên Trường. Từ giữa TK.XVI đạo Thiên chúa và văn minh phương Tây đã bắt đầu du nhập vào Nhật Bản. Người Nhật gọi ngành học này của Phương Tây là “Lan học” (cái học của người Hà Lan, nước phương Tây duy nhất được ra vào Nhật Bản), và người nghiên cứu ngành này là “Tây nho”. Người đứng đầu Lan học là Arai Hakuseki/ Tân Tỉnh Bạch Thạch. Văn hóa thị dân (Đinh nhân văn hóa/ Chonin bunka) là điểm đặc sắc nhất của thời Edo. Các đô thị lớn bấy giớ có Osaka, Kyoto, Nagasaki, và nhất là Edo. Edo có hơn 2 triệu dân, tương đương với dân số thành phố Luân Đôn đương thời, cho thấy mức độ tập trung đô thị rất cao của Nhật Bản.
Ở Triều Tiên, tầng lớp “Lưỡng ban” với sĩ đại phu và các võ quan cao cấp dần dần lui vào hậu trường lịch sử, nhường chỗ cho giai tầng “Sĩ lâm”, chủ yếu là những nho sĩ cấp trung và cấp thấp, đóng vai chính trên sân khấu chính trị và văn hoá Triều Tiên Hậu kỳ trung đại. Xã hội ổn định lâu dài dẫn đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Tầng lớp “cống nhân” – những người thu mua hàng hoá của các địa phương để cung cấp cho triều đình, dần dần phát triển thành những thương nhân chuyên doanh từng loại mặt hàng, và họ trở nên rất giàu có. Các hoạt động kinh doanh của thương nhân buôn bán gạo, muối, cá, tơ lụa, vải bông, nhân sâm… diễn ra náo nhiệt ở các thành thị như Seoul, Kaesong/ Khai Thành… Theo chân các đoàn buôn chuyến, văn hoá đô thị Trung Quốc thời Minh Thanh cũng truyền vào Triều Tiên.
Ở Việt Nam, Hậu kỳ trung đại có thể kể chính thức từ đầu TK.XVIII với sự khủng hoảng sâu sắc của chế độ phong kiến và sự phát triển nhanh chóng của các các đô thị: Thăng Long, Phố Hiến, Nghệ An, Hội An, Gia Định, Hà Tiên… Từ các đô thị này tầng lớp thị dân và “nhà nho tài tử” hình thành ngày một đông đảo, Bên cạnh đó, văn hoá Hậu kỳ trung đại của các đô thị Trung Quốc theo thuyền buôn và các đoàn đi sứ đã đẩy nhanh sự hình thành văn hoá thị dân ở Việt Nam.
Văn học Hậu kỳ trung đại Nhật Bản là một giai đoạn phát triển rực rỡ của văn chương xứ sở này. Về thơ ca, thành tựu rực rỡ nhất là thơ haiku (hai-kư) với các tên tuổi bất hủ của các haijin (bài nhân / nhà thơ haiku): Matsuo Basho/ Tùng Vĩ Ba Tiêu, Yosa Buson/ Dữ Tạ Vu Thôn, Kobayashi Issa/ Tiểu Lâm Nhất Trà.
Về tiểu thuyết, nổi bật nhất là thể loại “vật ngữ” viết về cuộc sống của thị dân. Tác gia tiêu biểu nhất là Ihara Saikaku/ Tỉnh Nguyên Tây Hạc, tác giả của một loạt tiểu thuyết “phù thế” đa tình: Hiếu sắc nhất đại nam (Một chàng trai đa tình), Hiếu sắc ngũ nhân nữ (Năm cô gái đa tình), Hiếu sắc nhất đại nữ (Một cô gái đa tình)… Bên cạnh Saikaku, còn có Santo Kyoden/ Sơn Đông Kinh Truyện (1761-1816), nhà văn đứng đầu của loại tiểu thuyết thông tục “sái lạc bản” (sharebon); Jippen Shaikku/ Thập Phản Xá Nhất Cửu (1765-1831) đứng đầu loại tiểu thuyết khôi hài “hoạt kê bản”…
Về truyện truyền kỳ, tập Tiễn đăng tân thoại ảnh hưởng đến Nhật Bản muộn hơn so với Triều Tiên và Việt Nam, cụ thể là đến giữa TK.XVII mới được tiếp nhận ở Nhật Bản, tức là sau Việt Nam và Triều Tiên khoảng 100- 150 năm. Năm 1666 ở Nhật Bản xuất hiện tác phẩm phóng tác Tiễn đăng tân thoại có tên là Già tì tử hay Ngự già tì tử (Otogiboko) của Asai Ryoi (A-sai Ryo-i, ?-1691), một võ sĩ lang thang đi tu, rồi trở thành nhà văn. Hơn 150 năm sau, với tập truyện Vũ nguyệt vật ngữ, Ueda Akinari đã đưa thể loại truyện truyền kỳ của Nhật Bản lên đến đỉnh cao. Tiểu thuyết Trung Quốc được đón nhận nhiệt liệt ở Nhật Bản, tạo nên làn sóng dịch thuật, phóng tác rất mạnh mẽ, đó là các bản dịch: Tây du, Tam ngôn, Nhị phách, Kim cổ kỳ quan, Kim bình mai, Kim Vân Kiều truyện…và nhiều truyện phóng tác, trong đó đáng chú ý nhất là Nam Tổng Lý Kiến bát khuyển truyện của Kyokutei Bakin/ Khúc Đình Mã Cầm (1767-1848), phóng tác từ truyện Thuỷ hử của La Quán Trung. Bakin cũng là tác giả của Kim Ngư truyện, tiểu thuyết phóng tác từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân…
Văn học Triều Tiên hậu kỳ trung đại diễn ra khá sôi nổi. Các thể thơ sijo/ thời điệu và kasa/ ca từ thay đổi theo hướng tăng cường tính hiện thực, thể hiện những rung cảm chân thực trong lòng người, nhất là về tình yêu, và cả những khát khao tính dục. Các nhà thơ tiêu biểu là: Kim Thiên Trạch/ Kim Chon-taek, Kim Thọ Trường/ Kim Su-jang và cả một số xuất thân từ ca kỹ – những “Kỹ sinh” theo cách gọi Triều Tiên. Tiểu thuyết chữ Hán Hậu kỳ trung đại có những thay đổi quan trọng. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng thực học (sirhak), tiểu thuyết chữ Hán tăng cường tính hiện thực, sử dụng loại Hán văn giản dị, hướng vào việc phê phán tính chất ăn bám của tầng lớp “Lưỡng ban”, tiêu biểu là các truyện Hứa Sinh truyện, Hổ Sất Lưỡng ban truyện, Mẫn Ông truyện của Phác Chi Nguyên/ Pak Chi-won. Tiểu thuyết viết bằng chữ Hangul xuất hiện từ cuối thời Trung kỳ trung đại với tác phẩm đầu tiên là Hồng Cát Đồng truyện/ Hong Kil-tong chon của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618) và tác phẩm gây được tiếng vang lớn là tiểu thuyết thần tiên Cửu vân mộng của Kim Vạn Trùng/ Kim Man-jung (1637-1692). Tuy nhiên phải đến Hậu kỳ trung đại thì tiểu thuyết bằng tiếng Hàn mới thực sự nở rộ: Tường Hoa Hồng Liên truyện, Thẩm Thanh truyện, Ngọc lâu mộng, Thục Hương truyện …Tác phẩm được yêu thích nhất là tiểu thuyết kỹ nữ Xuân Hương truyện. Các truyện trên đều có chủ đề phê phán xã hội, phê phán sự kỳ thị giàu nghèo, sang hèn, ca ngợi tình yêu tự do. Hậu kỳ trung đại của Triều Tiên chứng kiến sự lên ngôi của một thể loại văn học diễn xướng có tính chất đại chúng rõ nét là thể pansori, tức là “ca truyện” theo cách gọi của người Triều Tiên. Pansori là một loại truyện kể xen kẽ với thơ được ngâm kể kèm theo điệu bộ, tiêu biểu là các tác phẩm: Truyện nàng Xuân Hương (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên), Truyện nàng Shim Cheong, Truyện Heung Boo v.v.
Giai đoạn Hậu kỳ trung đại trong văn học Việt Nam được đánh dấu bằng truyện nôm Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào. Hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát đều đạt đến trình độ mẫu mực với các khúc ngâm nổi tiếng: Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm-Phan Huy Ích, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du, Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ… và các truyện thơ nôm bác học chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học đô thị Hậu kỳ trung đại của Trung Quốc: Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Ngọc Kiều Lê của Lý Văn Phức, Truyện Tây Sương của Nguyễn Lê Quang và nhất là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bên cạnh đó là các truyện thơ nôm bình dân, thường là của các tác giả khuyết danh: Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Trinh thử… Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mặc dù là của tác giả có danh, nhưng về mặt thi pháp, gần với truyện nôm bình dân hơn là truyện nôm bác học – tài tử giai nhân. Thơ Đường luật bằng tiếng Việt phát triển lên đến đỉnh cao với Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quán, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…Hậu kỳ trung đại chứng kiến sự lên ngôi của một thể thơ mới gắn liền với sinh hoạt đô thị: hát nói, với các nhà thơ tài tử: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh…Tiểu thuyết chữ Hán đứng đầu là bộ Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái. Thể ký có Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác. Bên cạnh đó là các tập ghi chép bằng Hán văn rất có giá trị như: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Trần Danh An…
Về học thuật, có thể kể ra đây những công trình đồ sộ có tính bách khoa thư của các học giả trứ danh: Vân đài loại ngữ, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, các công trình được biên soạn theo chủ trương của triều đình: Quốc triều thi lục, Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí…
Hậu kỳ trung đại khép lại bằng hai nhà nho thành thị là Tú Xương và Chu Mạnh Trinh, nhường chỗ cho nền văn học mới viết bằng chữ quốc ngữ khởi đầu bằng các trí thức Tây học ở Sài Gòn, rồi các sĩ phu duy tân khắp 3 miền Nam, Trung, Bắc
III. ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ RIÊNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI CÁC NƯỚC KHU VỰC VĂN HÓA CHỮ HÁN
1. Do điều kiện lịch sử xã hội tương đồng nên văn học trung đại Đông Á có những bước đi chung. Từ sau khi hình thành khu vực văn hoá Đông Á vào những năm đầu công nguyên, văn học khu vực đều khởi đầu bằng giai đoạn văn học gắn liền với Phật giáo. Những trước tác Phật giáo là những tác phẩm văn học đầu tiên của mỗi nước. Ở Nhật Bản là Tam kinh nghĩa sớ của Thánh Đức Thái Tử/ Shotoku taishi (TK.VII), ở Việt Nam là Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội (TK.III), còn ở Triều Tiên là bài “hương ca” Tuệ tinh ca của sư Dung Thiên/ Yung-chon. Phật giáo nằm trong cấu trúc tư tưởng chung tam giáo: Nho, Phật, Đạo. Đạo giáo ở Việt Nam và Triều Tiên thể hiện khá rõ qua tư tưởng Lão Trang, Đạo giáo ở Nhật Bản thâm nhập sâu vào Thần đạo, thể hiện dưới hình thức Thần đạo. Văn học Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản ở mức độ khác nhau đều có dòng văn học yêu nước, khẳng định nền độc lập và văn hiến riêng của dân tộc mình. Tư tưởng yêu nước bắt rễ sâu xa và được nuôi dưỡng không ngừng bằng đạo thờ thần của mỗi nước: Thần đạo Nhật Bản, Đạo thờ Thần có tính chất saman giáo của Triều Tiên, Đạo thờ Thần gắn liền với đạo thờ tứ phủ, thờ những anh hùng có công với nước ở Việt Nam. Sự du nhập của những tư tưởng ngoại lai đã đem đến những hình thức mới cho tư tưởng dân tộc của mỗi nước: yêu nước theo kiểu Phật giáo, rồi kiểu Nho giáo. Dẫu có những màu sắc ấy, nhưng tư tưởng yêu nước luôn được nuôi dưỡng bởi tình cảm thiêng liêng gắn liền với đạo thờ Thần qua các khái niệm: hồn thiêng sông núi, hồn nước, anh linh tổ tiên, tiên hiền hậu hiền trong làng… So với các nước, dòng văn học yêu nước Việt Nam ra đời khá sớm, tạo thành một dòng mạnh mẽ, khá liên tục, đến tận thời cận hiện đại. Tư tưởng yêu nước trong văn học Việt Nam thường gắn với tư tưởng hoà bình và nhân đạo, ít có tính dân tộc cực đoan, hẹp hòi.
Do sự lớn mạnh của tầng lớp nho sĩ trong nước và do những ảnh hưởng trào lưu khôi phục đạo thống, văn thống dân tộc Hán vào đời Minh mà từ TK.XIV trở đi, Việt Nam và Triều Tiên đều chuyển dần sang mô hình Nho giáo – Tống Nho. Từ khoảng TK.XVII – XVIII các nước đều bước vào giai đoạn Hậu kỳ trung đại với thiết chế Nho giáo ngày càng nghiêm khắc hơn, ảnh hưởng của Thiên chúa giáo và học thuật phương Tây ngày càng mạnh cùng với sự lớn mạnh không ngừng của các đô thị phong kiến. Thời trung đại của mỗi nước đều kết thúc trước cuộc xâm lăng của Phương Tây giữa TK.XIX.
2. Tương ứng với quá trình lịch sử ấy, tác giả văn học chủ yếu đồng thời cũng là nhân vật trữ tình trong thơ cũng thay đổi:
– Từ quý tộc, tăng lữ giai đoạn Sơ kỳ trung đại sang “sĩ đại phu” giai đoạn Trung kỳ trung đại (trường hợp Triều Tiên và Việt Nam), hoặc từ quý tộc, tăng lữ Sơ kỳ trung đại sang “võ sĩ” (samurai) và “pháp sư” (Thiền tăng) Trung kỳ trung đại (trường hợp Nhật Bản)
– Rồi từ “sĩ đại phu” Trung kỳ trung đại sang nhà nho cấp trung, cấp thấp: “sĩ lâm”, “trung nhân” Hậu kỳ trung đại (trường hợp Triều Tiên) hay “nhà nho tài tử”, “nhà nho bình dân” (trường hợp Việt Nam). Từ “võ sĩ” (samurai), “pháp sư” (Thiền tăng) Trung kỳ trung đại sang võ sĩ cấp thấp: những “ronin/ lãng nhân” (võ sĩ lang thang) và “Đinh nhân” (thị dân) Hậu kỳ trung đại (trường hợp Nhật Bản).
So với các nước trong khu vực, nhà nho Việt Nam thiên về tính chất nông dân nhất, trong khi đó nhà nho ở Trung Quốc, võ sĩ ở Nhật Bản có tính chất thương nhân, thị dân đậm nét hơn. Điều này cũng phản ánh rõ nét trong thơ văn mỗi nước.
3. Trong các nước Đông Á đều có hiện tượng song tồn hai bộ phận văn học: bộ phận viết bằng Hán văn và bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Có thể kể thêm loại văn trung gian giữa hai loại trên, pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng bản địa mà người Nhật gọi là “Hoà Hán hỗn hào”. Ở Việt Nam có lẽ cũng có hiện tượng đó, chẳng hạn như bài phú Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông là một loại văn “Việt Hán hỗn hào”. Quá trình phát triển của nền văn học mỗi dân tộc đồng thời cũng là quá trình xây dựng nền văn học viết bằng tiếng nói dân tộc. Nhật Bản là quốc gia lưu giữ được đầy đủ nhất tư liệu về văn học tiếng Nhật (thơ tanka, choka, sedonka từ TK.VI – VII), kế đến là Triều Tiên (những bài hyangga trước TK.X), Việt Nam là muộn nhất (thơ phú nôm TK.XIII). Ngôn ngữ dân tộc được hình thành cùng với sự khẳng định vai trò, giá trị của văn học dân gian – nguồn mạch nuôi dưỡng văn hóa dân tộc.
4. Về thể loại, thể loại phát triển mạnh nhất trong văn học Đông Á thời trung đại là thơ, văn xuôi phát triển muộn hơn. Trong các nước thì Việt Nam là nước phát triển mạnh nhất về thơ, xứng đáng nhất với tên gọi “Thi quốc” (đất nước của thơ ca). Việt Nam là nước có hầu hết các thể loại thơ chữ Hán, đồng thời nhiều thể thơ chữ Hán được Việt hoá, sử dụng trong việc làm thơ tiếng Việt, nổi bật nhất là thơ Đường luật. Phú và văn tế là thể loại rất gần với thơ cũng được sáng tác bằng tiếng Việt. Những hiện tượng như trên không hề có trong văn học Triều Tiên và Nhật Bản. Các thể thơ tiếng Việt rất phong phú: thơ Hàn luật (thất ngôn xen lục ngôn), thơ Đường luật, từ khúc, lục bát, song thất lục bát, hát nói, nhiều hơn các thể thơ Nhật Bản, Triều Tiên.
Những thể thơ có nguồn gốc dân tộc của Việt Nam tiêu biểu nhất là lục bát và song thất lục bát, tuy nhiên dấu tích văn học viết của những thể thơ này hiện diện rất muộn – khoảng thế kỷ XV – XVI, trong khi đó các thể thơ dân tộc trong khu vực ra đời sớm hơn nhiều, như Nhật Bản chẳng hạn, thể tanka/ đoản ca ra đời từ TK.VI – VII. Như vậy chúng ta cũng có thể suy đoán rằng: trước TK.X chắc đã có thơ tiếng Việt. Nếu vậy thì thể thơ ấy là gì, như thế nào? Chúng tôi cho rằng: cần phải coi thơ tối cổ của người Việt là loại thơ nhịp chẵn (2 tiếng, 4 tiếng), thơ nhịp lẻ (3 tiếng), thơ 3 tiếng kết hợp với 2, 4 tiếng, tiếc rằng vì nhiều lý do chúng đã không được sưu tập giữ gìn, đến nay chỉ còn tàn tích của nó qua đồng dao và một số bài được coi là ca dao. Từ thơ 2 tiếng, thơ Việt phát triển lên thành 4 tiếng, rồi từ đó mới thành 6 tiếng và 8 tiếng, tức thể thơ lục bát sau này. Từ thơ 3 tiếng kết hợp với 2, 4 tiếng tạo thành thơ trong hát dặm Nghệ Tĩnh. Thơ lục bát kết hợp với câu thơ thất ngôn trong hát dặm Nghệ Tĩnh sẽ hình thành nên thể song thất lục bát. Như vậy mặc dù hai thể lục bát và song thất lục bát ra đời muộn, nhưng thơ dân tộc thì đã có từ lâu rồi. Xem xét thơ văn khu vực chúng ta có thể kết luận như vậy.
Truyện thơ nôm là thể loại đặc biệt của văn học Việt Nam. Nó vừa là thơ – thơ lục bát, thể thơ sở trường ở cả trữ tình và tự sự, nhưng cũng vừa là tiểu thuyết, vì nhiều trong số đó là phóng tác, chuyển thể từ tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc (Truyện Song Tinh, Hoa Tiên, Phan Trần, Nhị độ mai, Ngọc Kiều Lê, Kim Vân Kiều…). Tiểu thuyết bằng thơ, lưu hành theo kiểu bán truyền khẩu như văn học dân gian là hiện tượng độc đáo riêng có ở Việt Nam mà các nước Đông Á khác không có. Điều này liên quan đến truyền thống truyện thơ Đông Nam Á và tình trạng xuất bản kém phát triển ở các đô thị Việt Nam thời trung đại.
Văn xuôi các nước Đông Á đều bắt đầu bằng các tác phẩm viết bằng Hán văn, và chuyển dần từ các thể văn học chức năng sang các thể văn nghệ thuật. Giai đoạn đầu tính chất văn sử triết bất phân còn rất rõ nét. Những tác phẩm đầu tiên của cả ba nước đều là những trước tác Phật giáo, cho thấy văn chương và tôn giáo chưa phân biệt rõ. Sau đó là các bộ sử – truyện, như Cổ sự ký/ Kojiki, Nhật Bản thư kỷ/ Nihonshogi, Đại kính/ Okagami của Nhật Bản, Tam quốc sử ký, Tam quốc di sử của Triều Tiên, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái của Việt Nam, cho thấy văn chương và lịch sử cũng chưa tách bạch. Văn xuôi nghệ thuật phát triển mạnh và sớm nhất ở Nhật Bản. Từ TK.X đã xuất hiện Truyện Genji/ Genji monogatari, một loại văn xuôi nghệ thuật hoàn chỉnh, thậm chí có ý kiến còn coi nó là tiểu thuyết tâm lý trường thiên sớm nhất thế giới. Một số học giả Nhật cho rằng “monogatari” là truyện kể, khác với tiểu thuyết, nhưng quả thực Truyện Genji có tính cách đột biến, vượt trội, hơn hẳn các “monogatari” khác, khiến cho nó gần với tiểu thuyết hiện đại hơn là truyện kể dân gian. Nghệ thuật cung đình Nhật Bản thời Heian cũng đóng góp nhiều thể loại khác như: nhật ký, tuỳ bút, truyện xen lẫn thơ gọi là “ca vật ngữ” (uta monogatari)… trong đó cảm thức về cái đẹp, cái vô thường, xu hướng đi sâu vào nội tâm con người là những giá trị nổi bật.
Văn xuôi bằng Hán văn của Việt Nam và Triều Tiên ra đời muộn hơn nhiều, khoảng cuối thời Sơ kỳ trung, tức là khoảng TK.XIV – XV. Tiểu thuyết bằng tiếng dân tộc của Việt Nam và Triều Tiên còn muộn hơn nữa, khoảng TK.XVI – XVII. Có thể coi bản nôm Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi xuất hiện vào TK.XVI là tiểu thuyết/ truyện ngắn trung đại bằng ngôn ngữ dân tộc đầu tiên của Việt Nam. Còn Triều Tiên, người ta vẫn coi Hồng Cát Đồng truyện/ Hong Kil-tong chon của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618) là tiểu thuyết đầu tiên bằng tiếng Hàn. Thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam thời trung đại là thơ, truyện thơ, trong khi đó ở Triều Tiên, nhất là Nhật Bản chủ yếu lại là văn xuôi, tiểu thuyết.
5. Việc nghiên cứu so sánh văn học các nước trong Khu vực văn hóa chữ Hán cho thấy đã đến lúc không thể nhìn các hiện tượng văn học dân tộc như những hiện tượng đơn lẻ mà phải thấy được tính hệ thống, tính quy luật của nó. Cách làm ấy có thể mở ra một chân trời rộng lớn cho giới nghiên cứu ngữ văn: so sánh thơ Việt Nam với thơ Nhật Bản, Triều Tiên; truyện thơ nôm với thể loại pansori; truyện truyền kỳ ở Việt Nam trong mối liên hệ với Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản; truyện thơ nôm Việt Nam với tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc, Triều Tiên, và phần nào đó Nhật Bản; rồi những vấn đề về quan niệm văn học, tư duy nghệ thuật v.v.
Việc nghiên cứu so sánh văn học các nước Khu vực văn hóa chữ Hán cũng cho thấy cần thiết phải biên soạn một bộ lịch sử văn học Đông Á, một bộ sách không phải là cộng chung mấy nền văn học lại, mà là một bộ lịch sử văn học miêu tả văn học khu vực như một nhất thể, với những bước đi chung, với những biểu hiện, đặc điểm riêng được quy định bởi hoàn cảnh lịch sử, địa lý và truyền thống riêng của mỗi dân tộc.
(Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 / 2006)
CHÚ THÍCH
(1) Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Văn học trung đại” là nhà nghiên cứu Niculin (Xem: Lê Trí Viễn, (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB.KHXH, tr.19)
(2) N.Konrat, (1997), Phương Đông và Phương Tây, Trần Đình Hượu-Trịnh Bá Đĩnh dịch, NXB.Giáo dục, Hà Nội
(3) Quách Thiệu Ngu, (?), Trung Quốc văn học phê bình sử, Hoằng Trí thư điếm, Hongkong (Trung văn)
(4) Hầu Ngoại Lư, (2004), Trung Quốic tư tưởng sử cương, Thượng Hải thư điếm xuất bản xã, Thượng Hải (Trung văn)
(5) Konishi Jin-ichi, (1993), Nihon bungaku shi (Lịch sử văn học Nhật Bản), Kodansha gakujutsu bunko 1090, Tokyo (tiếng Nhật)
(6) Xem Lịch sử và tương lai khu vực văn hóa chữ Hán (Kanji bunka ken no Rekishi to Mirai), Nhiều tác giả, Đại tu quán thư điếm, Tokyo, 1992 (tiếng Nhật)
(7) Konishi Jin-ichi trong Nihon bungaku shi (Lịch sử văn học Nhật Bản – sđd) cho rằng giai đoạn 1 của văn học trung đại Nhật Bản chỉ bao gồm thời Heian (TK.IX – XII). Chúng tôi nhận thấy vào thời Nara (TK.VIII) đã có ảnh hưởng rất lớn của thơ Bạch Cư Dị (Bạch thị văn tập – 710 quyển), cũng như đã xuất hiện một số tập thơ chữ Hán (Hoài phong tảo (Kaifùsô) do Mifune tuyển, Lăng vân tập (Ryôunshù) do Minemori tuyển…) thể hiện tính chất trung đại rõ nét, nên cho rằng Sơ kỳ trung đại bắt đầu từ thời Nara. Tuy nhiên trước ý kiến của nhà ngữ văn cỡ như Konishi Jin-ichi, chúng tôi thấy cần phải suy nghĩ thêm về quan niệm của mình.
(8) Nguyên văn Romaji: Ama no hara – Furisake mireba – Kasuga naru – Mikasa no yama ni – Ideshi tsuki kamo.
(9) Xin xem Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Đoàn Lê Giang, luận án tiến sĩ ngữ văn, ĐHQG TP.HCM, 2001.
(10) Có thể kể thời Cận thế của Nhật Bản (Hậu kỳ trung đại) bắt đầu từ thời Azuchi-Momoyama (giữa TK.XVI). Tuy nhiên đây là giai đoạn chiến tranh rất khốc liệt mà người Nhật gọi là thời “Chiến quốc”, nên những biến chuyển về văn hóa có tính đô thị chưa thật rõ nét như thời Edo (đầu TK.XVII) tiếp sau.