Tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần? – THPT Lê Hồng Phong
Tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần?
Tôm là loại thức ăn ngon và giàu dinh dưỡng, vậy bạn đã biết tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần chưa? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!
Giải thích tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần
– Ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần vì tôm có lớp vỏ kitin cứng, lớp vỏ cứng đó không lớn lên cùng với cơ thể được → lột xác nhiều lần, để lớn lên.
– Tôm cái ôm trứng có tác dụng bảo vệ trứng.
Ấu trùng tôm là gì?
Tôm post hay còn gọi là tôm ấu trùng, tôm giống thông thường, kích cỡ của tôm post quy định ngày tuổi của chúng. Ví dụ như PL 10 là con giống đã trải qua giai đoạn biến thái hoàn chỉnh, tôm post lúc này là 10 ngày tuổi. Trong thời gian này con giống đã hoàn thành quá trình phát triển hình thái và sinh lý của ấu trung tôm. Quá trình ương tôm post chuẩn sẽ được hoàn tất.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tôm post với 2 yếu tố chính như chất lượng đàn tôm bố mẹ, thông qua thời gian, kỹ thuật sinh sản, nuôi ương tôm và cả quá trình vận chuyển giống. Để có thể duy trì, đồng thời nâng cao chất lượng tôm post trước hết cần có những hiểu biết về các yếu tố ảnh hưởng nhằm điều khiển hoặc hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố này.
Tại sao tôm phải lột xác?
Phải lột xác nhiều lần bởi vì lớp vỏ có chất kitin cứng rắn bao bọc không lớn lên cùng cơ thể được.
Tôm phải lột xác nhiều lần vì:
- Lớp vỏ kitin rất nặng và cứng khiến cơ thể tôm khó di chuyển.
- Lớp vỏ không lớn lên cùng cơ thể.
Quá trình lột xác của tôm diễn ra như thế nào?
Đối với các loài giáp xác như tôm, cua thì sự lột xác của tôm được lặp đi lặp lại trong suốt quá trình sống của chúng. Sự lột xác có ý nghĩa rất quan trọng, giúp tôm sinh trưởng tăng trọng lượng và kích thước cơ thể. Đối với tôm sự lột xác ở giai đoạn tôm nhỏ diễn ra nhiều lần mỗi lần cách nhau một thời gian ngắn, khi tôm lớn dần thời gian lột xác giữa các lần sẽ lâu hơn.
+ Quá trình lột xác của tôm xảy ra khi tôm lột xác lớp vỏ cũ giữa khớp đầu ngực và phần bụng nứt ra, các phần phụ của đầu ngực tôm rút ra trước, sau đó là phần bụng và các phần phụ phía sau. Tôm tút ra khỏi lớp vỏ cũ bằng cách uốn cong mình toàn cơ thể, đối với những con tôm khỏe thì sự lột xác rất nhanh chỉ cần 5-7 phút. Lớp vỏ mới sẽ cứng lại sau 1-2 ngày đối với tôm lớn và từ 1-2 giờ đối với tôm nhỏ.
Chu kỳ lột xác của của loài tôm sẽ khác nhau
- Tôm thẻ chân trắng khi nhiệt độ nước khoảng 28 độ C, khoảng 30 đến 40 giờ tôm nhỏ sẽ lột xác một lần. Khi tôm phát triển lớn thì khoảng 15 ngày mới lột vỏ một lần.
- Tôm càng xanh: Từ ấu trùng đến khi thành tôm bột sẽ có 11 lần lột xác, từ tôm bột đến 2g thì 2-8 ngày lột vỏ một lần, sau đó chu kỳ lột vỏ sẽ lâu hơn.
Yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm?
1. Yếu tố dinh dưỡng
Dinh dưỡng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tôm khó lột xác. Khi tôm bị thiếu chất dinh dưỡng sẽ không đủ chất làm đầy vỏ nên vỏ tôm sẽ không bị đứt ra để lột xác. Để tôm lột xác thành công, lượng thức ăn phải cung cấp đủ hàm lượng đạm từ 32-45%.
Cho ăn đủ lượng thức ăn tùy vào từng giai đoạn cũng làm cho tôm phát triển nhanh, nên quá trình lột xác của tôm cũng sẽ diễn ra theo đúng quy trình. Trong những ngày đầu mới nuôi nên cho lượng thức ăn từ 8-10 % tổng trọng lượng đàn tôm nuôi và những tháng tiếp theo cho ăn với lượng 5-7%. Bà con phải thường xuyên theo dõi lượng thức ăn thừa trên sàng để có biện pháp điều chỉnh thức ăn cho phù hợp.
Ngoài ra, bà con nên cung cấp thêm các khoáng chất cần thiết giúp tôm lột xác tốt hơn, đặc biệt là đối với tôm thẻ chân trắng. Bà con nên cho tôm ăn thêm một số loại như Canxi, Vitamin, men tiêu hóa,… để tôm tái tạo lớp vỏ mới nhanh hơn.
2. Môi trường nuôi của tôm giúp kiểm soát quá trình lột xác của tôm
Môi trường nuôi không tốt làm chậm quá trình lột xác của tôm. Vì vậy người nuôi cần chủ động điều tiết các thông số môi trường nước như độ pH, độ kiềm, oxy hòa tan, nhiệt độ nước,….Ngoài ra trước khi tôm được thả nuôi bà con cần chú ý đến việc cải tạo ao, xử lý môi trường nước, gây màu nước cho tốt, nuôi đúng thời vụ.
3. Do ảnh hưởng của một số bệnh lý
Trong quá trình nuôi tôm bị mắc một số bệnh như nấm, đóng rong,…. sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm bị chậm hoặc không thể lột vỏ. Cách phòng bệnh tốt nhất là bà con nên quản lý chất lượng nước ao tốt, ổn định tảo trong ao và luôn cung cấp đủ oxy cho tôm cũng như là chất lượng thức ăn đảm bảo cho quá trình phát triển của tôm.
Tìm hiểu thêm về tôm
Tôm là từ chỉ phần lớn các loài động vật giáp xác trong bộ giáp xác mười chân, ngoại trừ phân thứ bộ Cua bao gồm các loài cua, cáy và có thể là một phần của cận bộ Anomura bao gồm các loài tôm ở nhờ (ốc mượn hồn)
Chúng đa phần là động vật ăn tạp sống ở dưới nước, bao gồm các loài sống ở nước biển, như tôm hùm càng, và các loài sống ở vùng nước ngọt, như tôm đồng, và nước lợ, như tôm càng xanh. Di chuyển trong nước, chúng có thể bò bằng chân, bơi bằng khua chân, hoặc trong một số trường hợp bơi ngược bằng cách gập người để thoát hiểm – một kiểu bơi rất đặc trưng của nhiều loài tôm.
Hầu hết các loài tôm đều có thể là nguồn thức ăn giàu protein cho con người, trong đó có nhiều loại là thủy hải sản có giá trị thương mại rất cao.
Phân loại
Cụ thể các loài tôm được nằm trong các phân loại khoa học như sau:
- Bộ Decapoda
- Phân bộ Pleocyemata
- Caridea: Tôm thực sự
- Stenopodidea: Tôm sọc đỏ trắng
- Polychelida: Các loài tôm chuyển tiếp giữa dạng tôm thực sự và tôm hùm, là các động vật giáp xác mù, sống ở đáy, giống tôm hùm.
- Achelata: Nhóm tôm hùm không càng. Tôm hùm nuôi và đánh bắt ở Việt Nam thuộc nhóm này.
- Glypheoidea: Tôm hùm glypheoid, đôi khi được gộp trong cận bộ Astacidea như là một siêu họ.
- Astacidea: Hai nhóm (Astacoidea và Parastacoidea) tôm đồng, tôm sông, một nhóm tôm hùm thực sự (có càng) (Nephropoidea), và một nhóm tôm hùm đá ngầm (chi Enoplometopus).
- Thalassinidea: “Tôm hùm bùn” và “tôm ma”.
- Anomura: Tôm ở nhờ
- Phân bộ Dendrobranchiata: Tôm pan đan, tôm thẻ, tôm he.
- Phân bộ Pleocyemata
Giải phẫu
Cơ thể của tôm, nhìn từ bề ngoài, có thể được phân chia thành hai phần: phần thứ nhất là đầu và ngực hợp nhất thành phần đầu ngực (tên khoa học là cephalothorax), và phần thứ hai là phần bụng dài hẹp.
Toàn bộ cơ thể của tôm được bảo vệ bằng lớp vỏ kitin cứng, trong đó phần vỏ ở phần đầu ngực, được gọi là vỏ giáp hay mai (tên khoa học là carapace), thường là cứng và dày hơn ở các phần khác. Vỏ giáp thường bao bọc cho mang và phần lớn các cơ quan nội tạng của tôm. Nước thường xuyên được bơm chảy qua mang nhờ vào chuyển động của các chân miệng. Một mũi nhọn và cứng, có thể có nhiều gai sắc, nhô ra ở phần đầu của mai, gọi là chủy, được dùng để tấn công hoặc phòng thủ, và cũng có thể giúp tôm giữ thăng bằng khi bơi ngược. Hai mắt lồi nhô ra từ mai, ở hai bên chủy. Chúng là mắt kép, có trường nhìn toàn cảnh và có khả năng nhận biết tốt các chuyển động xung quanh; tuy nhiên một số loài tôm mù không có thị lực phát triển do thích ứng với môi trường sống chui dưới bùn. Hai cặp ăng ten cũng nhô ra từ phía đầu vỏ giáp. Một trong hai cặp này rất dài, có thể dài gấp đôi chiều dài của thân tôm, và cặp còn lại ngắn. Các ăng ten có cảm biến xúc giác, khứu giác và vị giác. Các ăng ten dài giúp tôm định hướng trong môi trường, còn các ăng ten ngắn giúp đánh giá mức độ phù hợp của thức ăn hoặc con mồi. Có tám cặp chân mọc ra từ phần đầu ngực. Ba cặp đầu, tên khoa học maxilliped, là các chân hàm, để đưa thức ăn vào trong miệng và bơm nước qua mang. Ở loài crangon crangon, cặp chân đầu, maxillula, bơm nước qua khoang mang. Năm cặp còn lại, tên khoa học là pereiopod, tạo thành 10 chân bò của tôm. Ở loài crangon crangon, hai cặp chân bò đầu có càng để cắp thức ăn và đưa thức ăn vào miệng, hoặc dùng để chiến đấu hay tự vệ sinh; còn ba cặp sau, dài và mảnh, để bò hoặc đậu.
Phần bụng tôm, chứa chủ yếu là cơ bắp – tức là chứa chủ yếu phần thịt khai thác được trong thực phẩm cho con người, có sáu đốt. Mỗi đốt có vỏ bọc, lồng lên nhau, và các vỏ bọc này mỏng và mềm hơn phần vỏ giáp, đôi khi có thể trong suốt. Năm đốt đầu có các cặp chân bơi, tên khoa học là pleopod, có hình dạng như mái chèo, dùng khi tôm bơi theo chiều xuôi. Một số loài tôm dùng pleopod để chăm sóc trứng. Một số loài khác có thêm mang ở pleopod, hỗ trợ hô hấp. Tôm đực ở một số loài dùng một hoặc hai cặp pleopod đầu để đưa tinh trùng vào tôm cái. Đốt thứ sáu có chân đuôi, được gọi bằng tên khoa học là uropod. Đuôi cho phép tôm bơi ngược khi cảm thấy bị nguy hiểm, và khi tôm bơi theo chiều xuôi thì đuôi có chức năng dẫn hướng như bánh lái.
Các hệ thống cơ quan bên trong của tôm có thể được phân chia thành các nhóm: hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ tim mạch, hệ cơ, hệ sinh dục, hệ tiết niệu.
Hệ thần kinh của tôm gồm có các đường dẫn truyền tín hiệu thần kinh từ mắt và từ các ăng ten về bộ não nằm ở gần mắt, phía đầu của vỏ giáp, và các dây thần kinh từ não tỏa đến các cơ, để điều khiển vận động, và bộ phận cơ thể khác, dọc theo một trục đi ở phía dưới bụng tôm.
Hệ tiêu hóa của tôm gồm có miệng nằm gần các chân hàm, dẫn thức ăn vào khoang dạ dày, nằm ngay sau não bên trong vỏ giáp và chiếm một thể tích lớn bên trong vỏ giáp. Thức ăn sau khi được tiêu hóa ở dạ dày, sẽ được đẩy chạy dọc theo ruột, là đường ống nhỏ chạy dọc ở phần phía trên của bụng (chạy dọc lưng), và chất thải được đi ra ở lỗ mở của ruột nằm ở đuôi tôm. Phía cuối dạ dày cũng có đường ống nối với gan, nằm ở phía sau dạ dày bên trong vỏ giáp, là nơi chất dinh dưỡng có thể được dự trữ.
Hệ hô hấp có các mang nằm ở sát hai bên thành của mai, phía bên trong mai, gần các chân hàm. Ở một số loài mang còn xuất hiện ở các chân bơi. Nước thường xuyên được chảy qua các mang để cung cấp oxy và mang đi khí cacbonic nhờ vào chuyển động của một số chân hàm, và chân bơi với các mang nằm ở gần chân bơi.
Hệ tim mạch gồm có tim nằm ở phía sau gan bên trong vỏ giáp và gần tiếp giáp với phần bụng, bơm máu, dẫn dinh dưỡng từ gan và dạ dày, và dẫn oxy từ hệ hô hấp, đến các bộ phận khác qua các mạch máu, gồm có mạch máu chạy dọc ở phần phía trên của bụng (chạy dọc lưng) song song với ruột, và các mạch máu dẫn xuống phía dưới ở trong vỏ giáp, và có thể có thêm mạch máu chạy dọc ở phần phía dưới của bụng, mạch máu đi đến phía đầu…
Hệ cơ gồm có các cơ nhỏ nằm trong chân và ăng ten, vận động chân và ăng ten, và một cơ lớn nằm trong bụng, chiếm phần lớn thể tích phần bụng, vận động bụng và đuôi.
Hệ sinh dục, ở tôm đực gồm có tinh hoàn nằm ở bên dưới tim và các ống dẫn tinh trùng xuống bên dưới ra các lỗ ở gốc của chân bò (pereiopod) thứ năm; còn ở tôm cái là các buồng trứng ở dưới tim và ống dẫn trứng xuống bên dưới ra các lỗ ở gốc của chân bò thứ ba. Sau khi tôm đực và tôm cái giao phối, các trứng đã thụ tinh bám vào bên dưới của các chân bơi của tôm cái, ngoại trừ tôm pan đan không ôm trứng bằng chân bơi.
Hệ tiết niệu gồm có thận, bàng quang và niệu đạo dẫn chất thải ra ngoài, tất cả nằm cạnh nhau và ở phía đầu của tôm, bên trong vỏ giáp, và phía trước miệng.
Video về quá trình lột xác của tôm
Kết luận
Hy vọng qua bài viết trên bạn đã biết tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần. Cảm ơn bạn đã theo dõi!
Đăng bởi: THPT Lê Hồng Phong
Chuyên mục: Tổng hợp