Tài liệu giáo dục thể chất phần chung – Tài liệu text
Mục Lục
Tài liệu giáo dục thể chất phần chung – Tài liệu text
Gấu Đây
Blog
0
17
Share on Facebook
Share on Twitter
Tài liệu giáo dục thể chất phần chung
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 63 trang )
Bạn đang đọc: Tài liệu giáo dục thể chất phần chung – Tài liệu text
PHẦN I: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ
THAO
Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
A. M ỤC TI ÊU
– Phân tích được các khái niệm giáo dục thể chất, phát triển thể chất,
thể dục thể thao, nguồn gốc của TDTT.
– Phân tích được mục đích và các nhiệm vụ của giáo dục thể chất.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Lý luận giáo dục thể chất, cũng như bất kỳ môn khoa học có tính chất tổng
hợp nào khác, đòi hỏi khi tìm hiểu nội dung phải xác định rành mạch các khái
niệm mở đầu có tính chất chung nhất, liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu
và phải chính xác hoá những mối liên quan giữa khái niệm đó với các khái
niệm cơ bản gần với chúng. Trước hết cần đề cập đến các khái niệm giáo dục
thể chất và hệ thống giáo dục thể chất cũng như các khái niệm có liên quan như
phát triển thể chất, hoàn thiện thể chất, văn hoá thể chất và thể thao.
I.1. Khái niệm giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động (động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con
người. Tổng hợp quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của con
người.
Giáo dục thể chất được chia thành hai mặt riêng biệt, dạy học động tác và
giáo dục các tố chất vận động.
– Dạy học động tác là nội dung cơ bản của giáo dưỡng thể chất đó là quá
trình truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý sự
vận động của con người qua đó hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ
bản cần thiết trong cuộc sống và những hiểu biết có liên quan (tri thức chuyên
môn, luật, phương pháp, phương tiện của GDTC) Kỹ thuật các môn thể thao,
1
các hoạt động sống cơ bản: đi, chạy, nhảy, leo, trèo… Kỹ năng, kỹ xảo ngành
nghề du lịch, giải trí…
– Bản chất của thành phần thứ 2 trong giáo dục thể chất là sự tác động hợp
lý tới sự phát triển tố chất vận động, đảm bảo phát triển năng lực vận động.
Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trí
dục, đạo đức, mỹ thuật và giáo dục lao động.
Bên cạnh thuật ngữ GDTC người ta thường dùng thuật ngữ chuẩn bị thể
lực, về bản chất hai thuật ngữ này có ý nghĩa như nhau. Nhưng thuật ngữ thứ 2
thường được nhắc tới khi nhấn mạnh tính thực dụng của GDTC đối với lao
động hoặc các hoạt động khác.
GDTC kết hợp các mặt giáo dục khác như: đức, trí, thể, mĩ nhằm phát triển
con người cân đối toàn diện.
I.2. Khái niệm phát triển thể chất
Thể chất chỉ chất lượng cơ thể con người
Phát triển thể chất là qúa trình hình thành và thay đổi hình thái chức năng
cơ thể diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân (chúng được hình thành trên và
trong cái nền thân thể ấy).
I.2.1. Hình thái:
Thể chất con người có thể nhìn thấy cân đo, đong đếm được, hình thái bao
gồm chiều cao cân nặng, các chỉ số vòng ngực vòng eo, vòng đùi, vòng cổ,
vòng bụng, chiều dài bàn tay bàn chân v.v… tất cả các chỉ số đó có thể cân đo
đong đếm được gọi là hình thái.
I.2.2 Chức năng:
Các chỉ số về sinh lý sinh hoá, sinh cơ trong cơ thể.
VD: trọng lượng của tim, mạch đập lưu lượng phút, lưu lượng tâm thu,
thông khí phổi, hệ cơ xương, thần kinh.vv…
I.3 Quá trình phát triển thể chất đồng thời là quá trình tự nhiên và quá
trình Xã hội.
1.3.1. Quá trình tự nhiên
2
Phát triển thể chất là quá trình tự nhiên vì nó tuân theo những quy luật
sinh học tự nhiên, như quy luật phát triển thể chất theo lứa tuổi giới tính, quy
luật thống nhất hữu cơ giữa cơ thể và môi trường, quy luật thay đổi về hình thái
dẫn đến thay đổi về chức năng, theo những quy luật thay đổi số lượng dẫn đến
thay đổi chất lượng…
1.3.1. Quá trình xã hội
Tuy vậy sự phát triển thể chất của con người còn chịu sự chi phối của
môi trường xã hội như điều kiện sống vật chất, điều kiện vệ sinh, điều kiện lao
động, học tập, nghỉ ngơi.
điều kiện sống bao gồm; chê dộ dinh dưỡng, vi ta min, điều kiện môi
trường. Các điều kiện này tác động đến sự phát triển thể chất một cách tự phát
nghĩa là với điều kiện như ăn uống đầy đủ, môi trường đảm bảo sạch sẽ về
nước không khí, ánh sang vv… lao động đúng mức thì thể chất phát triển tốt và
ngược lại.
Giáo dục: Tác động đến sự phát triển thể chất 1 cách tự giác (chủ động,
tích cực hợp lý). Về bản chất giáo dục là quá trình điều khiển sự phát triển thể
chất 1 cách hợp lý hoá.
Vai trò của giáo dục còn thể hiện ở chỗ có thể khắc phục được những hậu
quả tiêu cực của lao động, học tập hoặc những hoạt động sống khác gây nên.
VD: Như chữa các bệnh cong vẹo cột sống hoặc phát triển mất cân đối
giữa các bộ phân cơ thể, hồi phục chức năng của các cơ quan bị tổn thương,
thậm trí thông qua tập luyện có thể tạo ra được những phẩm chất mà bản thân
di truyền không có, VD: khả năng làm việc trên không trung hay dưới độ sâu
của nước…
– Cả 3 yếu tố này diễn ra đồng thời, có quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho
nhau trong việc phát triển tố chất và nhân cách con người. Trên cơ sở yếu tố
bẩm sinh di truyền là tiền đề cũng với điều kiện sống phù hợp đảm bảo tính
khoa học và quá trình giáo dục diễn ra đúng lúc sẽ mang lại hiệu quả cao.
*Tập luyện TDTT sẽ thúc đẩy và nâng cao sự phát triển thể chất như
tăng cường sức khoẻ, thể hình đẹp, cân đối nâng cao các khả chức phận của cơ
thể như tim, phổi, hệ tim mạch, hô hấp… nâng cao và phát triển các tố chất thể
lực, sức đề kháng với bệnh tật, các năng lực vận động cơ bản của cuộc sống
như chạy, nhảy, bò, trườn… ngoài ra còn là mục tiêu để rèn luyện phẩm chất
đạo đức, hình thành nhân cách của con người và có thể khẳng định một điều
3
rằng người nào tập luyện TDTT 1 cách hợp lý thì chắc chắn sẽ có sự phát triển
thể chất hơn hẳn người không tập luyện TDTT mà do sự phát triển của các quy
luật tự nhiên (bẩm sinh di truyền).
I.4. Khái niệm thể dục thể thao
Khoảng những năm 70 về trước thuật ngữ TD và TT đã được giải thích
bằng cách cắt nghĩa từng từ.
Ví dụ: Thể là cơ thể, dục là giáo dục “giáo dục cơ thể”, song thuật ngữ
TDTT vẫn rơi vào tình trạng chưa được xác định nội dung cụ thể. Năm 1972
cuốn sách dịch đầu tiên về lý luận và phương pháp giáo dục thể chất đã nêu
được nội dung của khái niệm “TDTT là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh
thần được sáng tạo ra trong qúa trình phát trển xã hội loài người trong lĩnh vực
hoàn thiện thể chất cho con người”. Thuật ngữ TDTT được dùng lần đầu tiên
vào cuối thế kỷ 19 trong ngôn ngữ Anh SPORT.
Gần đây trong quá trình phát triển khái niệm TDTT ngày càng hoàn thiện
được bổ sung những nội dung mới, theo sự phát triển của nhận thức xã hội sự
hiểu biết phát triển – khái niệm phát triển. Thực ra nếu dịch theo đúng từ điển
thì thuật ngữ thể dục thể thao đang dùng phải mang tên là văn hoá thể chất.
Như vậy thuật ngữ TDTT đồng nghĩa với VHTC.
Muốn hiểu được văn hoá thể chất hay TDTT ta cần đi sâu nghiên cứu khái
niệm văn hóa. Trong các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới có hàng trăm
nghĩa khác nhau. Thông thường người ta dùng thuật ngữ văn hoá để chỉ những
hoạt động tinh thần của con người và xã hội, chỉ trình độ học vấn của loài
người, văn hoá cũng thường dùng để chỉ hành vi cử chỉ con người “người thiếu
văn hóa” những hành vi văn minh.
Trong khoa học các tài liệu gốc theo từ điển triết học bách khoa toàn thư
người ta định nghĩa “Văn hoá là hoạt động của con người và toàn xã hội nhằm
cải tạo tự nhiên. Như vậy văn hoá chính là hoạt động của con người nhằm vào
tự nhiên (Cày bừa cuốc xới cải tạo tự nhiên để đáp ứng cho con người để lại
những di sản hoạt động gọi là văn hoá).
4
Trong những tài liệu hiện đại, nội dung khái niệm văn hoá phong phú và đa
dạng hơn. Văn hoá bao gồm hoạt động sáng tạo của con người chinh phục tự
nhiên, những phương tiện, phương pháp hoạt động và những kết quả hoạt động
đem lại cho cá nhân và xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người
đã nảy sinh một loại hoạt động đặc biệt, nó không chỉ tác động vào tự nhiên
bên ngoài mà tác động vào ngay phần tự nhiên trong con người, đó là cơ thể
con người. Cơ thể con người gồm 2 phần: Thực thể tự nhiên (thể xác) và thực
thể xã hội (tinh thần).
Vậy TDTT được hiểu là sự luyện tập cơ thể cải tạo cơ thể bằng sự vận động
tích cực của cơ bắp. Đối tượng của TDTT là điều khiển quá trình phát triển thể
chất của con người. Để phân tích sâu hơn khái niệm TDTT được xem xét 3
quan điểm.
– TDTT là một hoạt động.
Đây là một hoạt động của con người, nó là một hoạt động có đối tượng là
con người, đặc biệt của hoạt động này là một hoạt động hỗ trợ bổ sung cho hoạt
động chính cơ bản. Nó là một hoạt động phụ làm tăng hiệu quả của hoạt động
chính. Nó là hoạt động phụ bổ sung nâng cao hiệu quả hoạt động sống cơ bản.
TDTT ra đời gắn liền với lao động cụ thể gắn liền với nghề săn bắn. Nghề săn
bắn đòi hỏi con người phải có sức mạnh khéo léo bền bỉ, phải có kỹ năng leo
trèo rình rập bò trườn và đặc biệt là lao ném. Nhờ có ý thức phát triển mà con
người nhận thức được mối liên hệ nhân quả giữa chuẩn bị trước cho lao động
và kết quả lao động vì vậy nó nảy sinh hình thức tập luyện để chuẩn bị trước
cho lao động. Ở những nước Châu Phi, Châu Úc còn lại những di tích chứng tỏ
người cổ xưa đã tập luyện săn bắn như hình vẽ của thú vật trên đá.
Vậy nó là hoạt động chuẩn bị cho lao động, đi trước lao động để làm tăng
hiệu quả của lao động, phục vụ cho lao động đây là chức năng xã hội vốn có
của TDTT và lúc đó giáo dục thể chất cũng thuộc phạm trù vĩnh hằng. Cùng
với sự phát triển của xã hội loài người, tính chất của lao động thay đổi lao động
chân tay ngày càng giảm nhẹ lao động trí óc và lao động bằng máy ngày càng
5
tăng lên. Nhưng mối quan hệ giữa TDTT với lao động không hề bị xoá bỏ. Nếu
như trước đây TDTT liên hệ trực tiếp với lao động mang tính thực dụng trực
tiếp nhưng ngày nay nó mang tính chất gián tiếp. Ảnh hưởng của nó là nâng
cao sức khoẻ, chúng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục sau lao động nâng cao
khả năng hoạt động thể lực.
– TDTT là tổng hoà giá trị vật chất và tinh thần
Đó là những công cụ phương tiện được sáng tạo ra tác động vào tự nhiên,
đó là nhưng giá trị vật chất và tinh thần được lưu trữ và truyền bá ví dụ: Xây
nhà phải có những phương pháp dụng cụ sáng tạo ra gọi là văn hoá (trong
trường hợp này TDTT bao gồm những môn tập những bài tập mà con người
sáng tạo ra như thể dục nhịp điệu, thể dục thể hình, phương pháp tập luyện)
được sử dụng trong thi đấu và tập luyện.
– TDTT là kết quả của hoạt động.
Kết quả của tập luyện TDTT thể hiện ngay trên chính cơ thể con người đó
là sức khoẻ, thể chất phát triển, kỷ lục thể thao, phong trào thể thao. Vậy TDTT
theo nghĩa hẹp là: Bộ phận hữu cơ của nền văn hoá xã hội … Theo nghĩa rộng
là tổng hoà những giá trị vật chất và tinh thần loài người sáng tạo ra trong lĩnh
vực tập luyện.
II. NGUỒN GỐC CỦA THỂ DỤC THỂ THAO VÀ CHỨC NĂNG VỐN CÓ.
Thể dục thể thao ra đời phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Lao động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của thể dục thể thao. Nói cách khác, đó
là cơ sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất.
Thể dục thể thao được phát sinh trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất
định của xã hội đặc biệt là săn bắt.
Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh sống bằng săn
bắt là bộ phận kinh tế sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng chủ yếu nhất của thời đó.
Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân: Ăn, ở, mặc… của
mình. Tất cả mọi hoạt động của con người đều phục vụ săn bắn. Nhờ săn bắt
con người kiếm được thức ăn và một số vật phẩm tiêu dùng. Chính vì vậy
muốn có được thức ăn và sống được an toàn, họ luôn phải đấu tranh với thiên
6
tai và thú dữ, con người phải biết leo trèo, lội qua suối, bơi qua sông v.v… Nói
cách khác săn bắt là cuộc thi giữa con người và con vật về sức nhanh và sức
mạnh, sức bền. Thực tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con người phải
biết chuẩn bị, dạy và học. Đây chính là điều kiện khách quan đề ra đời TDTD
mặt khác do hoạt động tư duy có rất sớm những kinh nghiệm hoạt động của con
người được lặp lại nhiều lần trong cuộc sống và dần được tích luỹ lại đã làm
cho con người nhận thức được hiện tượng tập luyện, vì họ hiểu rằng chạy nhiều
thì chạy càng nhanh, càng dẻo dai hiệu quả của cuộc săn bắt càng tốt hơn.
Vì vậy trong quá trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện là cần
thiết để chuẩn bị cho lao động, để lao động được khoẻ dẻo dai bền bỉ cho nên
người ta tập động tác tương tự như ném, leo trèo dần già quá trình lao động và
tập luyện con người đã tích luỹ được thêm nhiều hiểu biết để truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Đây chính là điều kiện chủ quan của sự ra đời của TDTT.
Vậy chức năng vốn có của TDTT là chuẩn bị cho lao động đi trước lao động
trong thời kì này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triển
của loài người đặc biệt là sự phát triển KH- KT ngày càng phát triển nó giảm
nhẹ sức lao động của con người, thay vào đó là những máy móc hiện đại tinh vi
chủ động, con người chỉ cần điều khiển thì vai trò của TDTT lại mang tính thực
dụng gián tiếp nó chuẩn bị thể lực cho con người ngoài ra nó còn nhiều vai trò
chức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể dục vệ sinh,
TD trong thời gian nhàn rỗi, TD hồi phục làm cho con người có trạng thái thoải
mái để bước vào lao động đạt hiệu quả cao.
Như vậy TDTT xuất hiện cùng với sự hình thành của xã hội loài người
TDTT trở thành biện pháp quan trọng để chuẩn bị cho lao động mà lao động là
điều kiện tự nhiên để đảm bảo cho cuộc sống. Xã hội loài người càng phát triển
TDTT cũng theo đà đó mà phát triển cho nên TDTT là một hiện tượng xã hội
nó thuộc phạm trù vĩnh cửu với ý nghĩa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của XH
loài người sẽ tiến triển theo quá trình tiến triển của XH sẽ tồn tại mãi mãi như
những điều kiện tất yếu của nền sản xuất.
7
III. TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI CƠ THỂ
Cơ thể con người là một khối thống nhất. Tất cả các hệ thống, cơ quan
trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Khi ta vận
động( tập luyện TDTT) thì không những cơ bắp hoạt động mà tim, phổi, hệ
thần kinh, hệ bài tiết…đều tăng cường hoạt động và chịu ảnh hưởng rõ rệt.
Tập luyện TDTT có tác dụng làm cho các tổ chức cơ quan trong cơ thể thay
đổi hình thái và nâng cao năng lực vận động. Hai mặt đó luôn liên qua mật thiết
và tác động lẫn nhau ( cấu trúc thay đổi dẫn đến chức năng thay đổi).
Hoạt động TDTT là một trong những hoạt động vận động tích cực thực hiện
trong những điều kiện phức tạp của thế giới tự nhiên. Phương tiện hoạt động
TDTT gồm có các bài tập thể chất, các điều kiện tự nhiên như: ánh sáng, không
khí, nước, bức xạ mặt trời… và các yêu cầu về vệ sinh, chính vì vậy mà tập
luyện TDTT có tác động và ảnh hưởng tốt đối với thể người tập.
Tập luyện TDTT là phương pháp phòng bệnh tích cực, tăng cường sức đề
kháng cho cơ thể, chống bệnh tật, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển tự nhiên,
cân đối, tăng cường sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ.
Nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, góp phần rèn luyện những phẩm
chất đạo đức – ý chí cần thiết cho con người, phát triển toàn diện các tố chất
vận động: sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo.
Tập luyện TDTT sẽ góp phần khắc phục sửa chữa được một số khuyết tật
của cơ thể và những hiệu quả tiêu cực của hoạt động lao động và học tập gây ra
(chữa các bệnh cong vẹo cột sống, bẹt bàn chân), phòng chống bệnh nghề
nghiệp và góp phần quan trọng vào việc điều trị, hồi phục tích cực các cơ quan
vận động và một số bệnh lý khác.
Thông qua hoạt động TDTT một cách có hệ thống sẽ nâng cao được khả
năng trao đổi chất trong cơ thể, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, giúp cơ
thể phát triển tự nhiên cân đối hài hoà về thể chất, nâng cao được cường độ
hoạt động, khả năng thăng bằng, độ linh hoạt, khả năng phân tích – tổng hợp
của hệ thần kinh, từ đó nâng cao năng lực thích ứng của cơ thể đối với những
8
thay đổi của thời tiết, khí hậu và hoàn cảnh, tạo điều kiện thích nghi với môi
trường sống. Ngoài ra TDTT còn giúp cho người tập có được tinh thần sảng
khoái, nâng cao năng lực trí tuệ giảm stress.
Do vậy, tập luyện TDTT thường xuyên có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng cuộc sống cũng như năng lực công tác, lao động, học tập của con người,
làm thay đổi theo hướng tích cực và và nâng cao khả năng làm viêc của các hệ
thống cơ quan trong cơ thể, nhờ đó có thể tao ra những phẩm chất, khả năng mà
bẩm sinh di truyền không có được: như làm việc trong môi trường chân không
của cá nhà du hành vũ trụ, điều kiện áp suất cao như thợ lặn.
Nhưng một điều cần chú ý là những tác động của GDTC phải trong giới
hạn cho phép nhất định. Trong những nhân tố về đặc điểm hình thái chức năng
của cơ thể có những nhân tố ít chịu ảnh hưởng của tập luyện mà chịu sự chi
phối của bẩm sinh và di truyền, đó là những đặc điểm “bảo thủ” của cơ thể.
Như đối với phụ nữ tập luyện TDTT có thể làm cho vòng eo nhỏ lại nhưng lại
không thể làm cho vòng ngực lớn ra. Tiền đề vật chất cho sự phát triển thể chất
là bẩm sinh di truyền còn xu hướng, tốc độ phát triển lại chịu ảnh hưởng lớn
của các điều kiện sinh hoạt, vật chất, chế dộ sống, chế độ lao động, học tập và
nghỉ ngơi đặc biệt là quá trình giáo dục.
IV. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
IV .1. Mục đích:
Mục đích của giáo dục hay nói đúng hơn là mục đích mà con người và xã
hội đề ra cho mình trong lĩnh vực giáo dục. Mục đích là sự dự báo kết quả của
hoạt động cần đạt được, mục đích giáo dục là sự phản ánh những nhu cầu
khách quan của xã hội, không thể đặt ra mục đích một cách tuỳ tiện.
Một trong những nhân tố khách quan cơ bản của mục đích GDTC là những
yêu cầu của nền sản xuất xã hội đối với sức khoẻ, thể chất và trình độ thể lực
của con người. Chức năng vốn có của GDTC là chuẩn bị cho lao động nó tồn
tại vĩnh hằng cùng với lao động, chính nền sản xuất lớn XHCN đòi hỏi con
người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Các Mác nói “Đến một giai
đoạn nào đó trong xã hội tất yếu nảy sinh vấn đề thay thế những công nhân chỉ
9
đơn giản thực hiện chức năng lao động bằng những cá nhân phát triển toàn
diện”. Chính những người sáng tạo ra chủ nghĩa Mác đã nhận ra nhu cầu khách
quan về con người phát triển toàn diện có từ thời cổ xưa trong kho tàng trí tuệ
của loài người.
Nguyên nhân khách quan thứ hai quyết định mục đích của giáo dục thể
chất là những yêu cầu củng cố quốc phòng của đất nước, trong bất kỳ tình thế
nào mỗi quốc gia đều phải thực hiện chức năng quốc phòng (qua năm thời kỳ
nô lệ – CNCS) đều có quân sự trong TDTT. Một trong những thành phần quan
trọng nhất tạo nên sức mạnh quân sự là trình độ chuẩn bị thể lực cho chiến sỹ.
Phương tiện kỹ thuật hiện đại đòi hỏi quân sự phải tiếp thu và sử dụng chúng
có hiệu quả trong các tình huống chiến đấu, yêu cầu tối đa về hoạt động thể lực
và tinh thần.
Mục đích của giáo dục thể chất XHCN là sự phản ánh nhu cầu cụ thể của
xã hội có cội nguồn từ lao động, song điều đó không có nghĩa giáo dục thể chất
chỉ hoàn toàn nhằm tới sức khoẻ thoả mãn nhu cầu thực dụng xã hội. Mục đích
của giáo dục thể chất và mục đích của giáo dục nói chung trong chế độ XHCN
phải là sự phản ánh nguyên tắc cao nhất của CNCS “tất cả vì con người”. Tính
nhân đạo cao cả của thực tiễn giáo dục XHCN còn thể hiện ở chỗ lần đầu tiên
trên cơ sở thực tế xoá bỏ mâu thuẫn giữa chức năng xã hội thực dụng của giáo
dục và đáp ứng đầy đủ lợi ích phát triển toàn diện cân đối của mọi thành viên
trong xã hội.
Mục đích của GDTC trong các trường đại học là góp phần thực hiện nục
tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hoá xã
hội, phát triển hài hoà, cường tráng, đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp
và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất… của nền kinh tế thị
trường.
Mục đích của GDTC đựơc cụ thể hoá trong 3 nhóm nhiệm vụ
IV.2. NHIỆM VỤ.
IV.2.1. Nhóm nhiệm vụ giáo dục thể chất theo nghĩa hẹp.
10
” Giáo dục cơ thể” củng cố và tăng cường sức khoẻ phát triển toàn diện cân
đối, hình thái chức năng cơ thể, phát triển toàn diện các tố chất vận động và khả
năng hoạt động thể lực.
– Nhóm nhiệm vụ này được đảm bảo phát triển toàn diện các tố chất nhanh,
mạnh, bền, khéo léo, chúng là nhân tố tổng hợp chủ yếu của khả năng vận
động, giáo dục các tố chất thể lực và còn có ý nghĩa sức khoẻ. Chính sức khoẻ
lại quy định tự nhiên hoàn thiện hình thái chức năng cơ thể thông qua vận động
có hệ thống “Không có gì làm, kiệt quệ và huỷ hoại cơ thể bằng sự thiếu vận
động kéo dài” Arixtôt.
Đồng thời nhiệm vụ giáo dục sức khoẻ trong giáo dục thể chất cũng được
giải quyết tương đối độc lập đó là dùng các thủ pháp tôi luyện cơ thể nâng cao
khả năng thích nghi trước những biến đổi đột ngột của thời tiết .
Ví Dụ: Tập làm quen với nước lạnh, tạo ra sức khoẻ một cách trực tiếp và
đảm bảo yêu cầu vệ sinh trong sinh hoạt.
– Hoàn thiện thể hình.
Trong hệ thống giáo dục thể chất XHCN nhiệm vụ hoàn thiện thể hình
không có nghĩa độc lập.
Về việc hoàn thiện thể hình chỉ đúng đắn chừng nào nó không trở thành
mục đích duy nhất, mà phải phục vụ cho yêu cầu phát triển toàn diện thể lực
phẩm chất và năng lực con người, trong một số trường hợp việc hoàn thiện hình
thể có ý nghĩa phòng chữa bệnh và chỉnh hình.
IV.2.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất:
Hình thành và hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo, quan trọng trong cuộc sống kể cả
kỹ xảo thực dụng trực tiếp và thể thao, trang bị kiến thức chuyên môn.
Nhiệm vụ giáo dưỡng được đặt ra bởi khả năng vận động của con người
được bộc lộ trong các kỹ năng vận động, nói cách khác muốn có trình độ chuẩn
bị thể lực chỉ phát triển các tố chất vận động thì chưa đủ.
Xem thêm: “Mỹ Nhân Gangnam”: Một thế hệ Hàn Quốc ám ảnh ngoại hình, chấp nhận làm “quái vật dao kéo”
Nội dung cụ thể của việc giáo dưỡng ở các giai đoạn khác nhau trong quá
trình giáo dục thể chất nhiều năm phụ thuộc vào kinh nghiệm vận động mà con
11
người đã tiếp thu được và lôgíc chuyển tiếp từ kỹ năng, kỹ xảo đơn giản đến kỹ
xảo phức tạp còn năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động và
nhiều nhân tố khác.
Quy tắc chung là chuyển dần từ giáo dưỡng chung rộng rãi sang hoàn thiện
sâu kỹ năng, kỹ xảo vận động. Giáo dưỡng chung, đi, chạy, nhảy, leo trèo các
bài tập đơn giản chuyển từ kỹ năng cơ bản đã là các kỹ năng, kỹ xảo thể thao.
Một nội dung quan trọng của giáo dưỡng thể chất là trang bị những kiến
thức chuyên môn cũng như thường xuyên bổ sung vận dụng chúng trong thực
tiễn. Đó là những kiến thức làm tiền đề cho việc tiếp thu kỹ xảo (sự hiểu biết kỹ
thuật, những kiến thức về vệ sinh tập luyện, phương pháp tập luyện thi đấu,
những ý kiến về ý nghĩa xã hội của GDTC).
IV.2.3. Nh iệm vụ hình thành nhân cách con người
Đây là quá trình hình thành nhân cách cho con người, nhiệm vụ giáo dục
Chủ nghĩa Cộng sản. Rõ ràng những nhiệm vụ phức tạp để hình thành nhân
cách hoàn chỉnh chỉ được giải quyết trong điều kiện thống nhất hữu cơ các mặt
giáo dục riêng biệt với giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức dường như xuyên
suốt toàn bộ thực tiễn giáo dục xã hội, xuyên suốt các mặt giáo dục và hình
thức giáo dục. Bởi vì hiệu quả cuối cùng của bất kỳ mặt giáo dục nào cũng phụ
thuộc chủ yếu vào giải quyết toàn diện nhiệm vụ hình thành lý tưởng tiêu chuẩn
đạo đức, thói quen đạo đức. Tính giai cấp của giáo dục chính là hình thành
nhân cách đặc trưng cho chế độ xã hội. Giáo dục đạo đức dường như xuyên
suốt toàn bộ quá trình giáo dục xã hội, xuyên suốt bất kỳ bộ phận, khía cạnh,
hình thức nào của thực tiễn đó. Bởi vì đạo đức là một thành viên xã hội, để điều
chỉnh hành vi của con người
Để điều chỉnh hành vi của con người mỗi chế độ xã hội đặt ra những chuẩn
mực quy định thái độ của con người đối với bản thân, bạn bè, gia đình, tập thể,
quốc gia.
Trong quá trình giáo dục thể chất chúng ta cũng phải giải quyết nhiệm vụ
này, đối với trí dục cũng vậy nhất là những môn xã hội học văn học.
12
Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, chúng ta cần tiến hành giáo dục ý chí. Ý
chí là khả năng của con người tập trung sức mạnh tinh thần để khắc phục
những khó khăn trong quá trình hoạt động và trong quá trình sống.
Chỉ có những người có ý chí, có bản lĩnh mới vượt qua được trở ngại trên
đường đạt tới mục đích. Trong hành vi của con người gọi là hành động ý chí
khác hành động bản năng, trong hoạt động con người bao giờ cũng đặt cho
mình một cái đích đạt tới. Muốn đạt được mục đích đó đòi hỏi phải có ý chí.
Những biểu hiện của ý chí trong một con người thường thấy cương quyết,
tự tin, kiên trì, nhẫn nại, dũng cảm. Trong quá trình giáo dục thể chất phải kết
hợp những nét về giáo dục ý chí.
Đây không phải là nhiệm vụ đặc trưng nhưng nhất thiết phải làm vì đây là
nhiệm vụ xuyên suốt toàn bộ hệ thống giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Phân tích khái niệm GDTC?
2. Phát triển thể chất là gì?
3. Sự phát triển thể chất của con người tuân theo những quy luật nào?
4. Phân tích khái niệm TDTT?
5. Trình bày nguồn gốc của TDTT?
6. Tác dụng của việc tập luyện TDTT đối với cơ thể
7. Trình bày mục đích và các nhiệm vụ của GDTC?
13
Bài 2
CÁC PHƯƠNG TIỆN – PHƯƠNG PHÁP
VÀ CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC THỂ CHẤT
A. MỤC TIÊU
– Phân tích được bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản
của giáo dục thể chất.
– Trình bày được các nhân tố tác động hợp lý tới hiệu quả của bài tập
thể chất và đặc điểm các nhân tố môi trường tự nhiên và điều kiện vệ sinh.
– Trình bày được lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần
cơ bản của giáo dục thể chất.
– Mô tả được cáu trúc buổi tập thể dục thể thao.
B. NỘI DUNG
I. CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Để đạt mục đích giáo dục thể chất người ta sử dụng tổng hợp các phương
tiện khác nhau kể cả các phương tiện chung cho quá trình sư phạm. Các
phương tiện giáo dục giáo dục thể chất được sử dụng để tác động đến các đối
tượng tập luyện nhằm đạt được những mục đích của giáo dục thể chất. Chúng
bao gồm các bài tập thể dục thể thao, các nhân tố môi trường tự nhiên, điều
kiện vệ sinh.
Trong đó bài tập thể chất là phương tiện chuyên môn cơ bản của GDTC.
I.1. BÀI TẬP THỂ CHẤT LÀ PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN MÔN CƠ BẢN CỦA
GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
I.1.1. Khái niệm bài tập thể chất:
Bài tập thể chất là những hành vi vận động của con người, được lựa chọn
để giải quyết các nhiệm vụ của giáo dục thể chất.
Trong cuộc sống con người thực hiện những hành động vận động như lao
động, vui chơi, sinh hoạt, giao tiếp. Thông qua hoạt động con người biểu thị
nhu cầu cảm xúc và thái độ tích cực đối với thế giới bên ngoài. Song không
phải tất cả những hành động đó đều gọi là bài tập thể chất. Đặc điểm quan
14
trọng nhất của bài tập thể chất là sự phù hợp giữa hình thức và nội dung của bài
tập thể chất.
Ví dụ: Những hình thức vận động cơ bản của con người như đi, chạy, nhảy
v.v… có thể trở thành bài tập thể chất khi chúng có hình thức hợp lý theo quan
điểm giáo dục thể chất và tạo ra được các quá trình biến đổi chức năng của cơ
thể ở mức độ cần thiết, phù hợp với yêu cầu giữ gìn sức khoẻ, nâng cao các tố
chất thể lực, hoàn thiện các kỹ năng vận động v.v… Như vậy bất kỳ động tác
nào của lao động và đời sống cũng có thể được cải biến để trở thành phương
tiện giáo dục thể chất. Như vậy bài tập thể chất nhất thiết không phải là những
môn thể thao.
Dấu hiệu đặc trưng của bài tập thể chất là sự lặp đi lặp lại động tác, chỉ có
lặp lại nhiều lần một hành động vận động nào đó mới có thể hình thành kỹ năng
kỹ xảo, hoặc làm phát triển tố chất thể lực.
I.1.2. Nguồn gốc bài tập thể chất:
Các công trình nghiên cứu lịch sử cho thấy bài tập thể chất đã xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người trong quá trình lao động. Nhân tố
quan trọng nhất làm nảy sinh BTTC là điều kiện sống vật chất và hoạt động của
con người mà trước nhất là lao động, các bài tập thể chất đầu tiên có liên hệ
trực tiếp với các động tác lao động ngoài lao động các hoạt động quân sự, nghệ
thuật, tôn giáo v.v… cũng ảnh hưởng tới sự phát triển bài tập thể chất, các bài
tập nảy sinh và đáp ứng nhu cầu lao động được gọi là bài tập tự nhiên. Nhưng
xã hội loài người ngày càng phát triển những bài tập tự nhiên mất dần tính thực
dụnh trực tiếp, người ta sáng tạo ra những bài tập không có những động tác
giống tự nhiên, (do sản xuất ngày càng phát triển sự hiện đại của máy móc) sự
gián tiếp nhiều cho nên BTTC mất dần tính thực dụng trực tiếp dần dần các bài
tập tự nhiên được thay thế bằng các bài tập phân tích. Đó là các bài tập được
sáng tạo để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và chữa bệnh.
Ví dụ: Các bài tập thể dục vệ sinh buổi sáng, những bài tập thể dục thể hình
, các bài tập thể dục dụng cụ…
15
– Sự khác biệt giữa bài tập thể chất và lao động chân tay.
Giống nhau: Đều là sự vận động của cơ bắp với những cơ chế biến đổi về
sinh cơ, sinh lý, sinh hoá… tương tự nhau. Nhưng không thể coi hai hiện tượng
đó có cùng một bản chất mà giữa chúng có sự khác biệt cơ bản.
Bài tập thể chất
Lao động chân tay
BTTC tác động vào con người
LĐCT tác động vào tự nhiên
Mục đích: Tăng cường sức khoẻ
Mục đích: Tạo ra của cải vật chất
– chữa bệnh nghề nghiệp
– Gây bệnh nghề nghiệp
– Tạo ra những tố chất thể lực mới
– Phát minh ra những phương
pháp
mà bẩm sinh di truyền không có được
để cải tạo tự nhiên.
Lao động là quá trình con người tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt
tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình, qua lao động con người cải tạo chính bản
thân mình. Song sự tác động đó chỉ mang tính tự phát. Trong sản xuất hiện đại
lao động chân tay được giảm nhẹ sẽ làm thu hẹp vận động thể lực và kết quả là
hạn chế sự phát triển thể chất của con người.
Trong khi đó bài tập thể chất tác động tới cơ thể theo quy luật của quá trình
giáo dục nhờ bài tập thể chất ta có thể định hướng tác động con người để phát
triển thể chất và tinh thần của họ.
Như vậy TDTT và lao động chân tay có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau được
thể hiện ỏ chỗ. TDTT sau khi được hình thành trên cơ sở lao động đã trở thành
một hoạt động không thể thay thế được của công việc chuẩn bị cho lao động.
để nghiên cứu sâu hơn về bản chất của bài tập thể chất chúng ta cần phân
tích nội dung và hình thức của BTTC.
I.1.3. Nội dung và hình thức của bài tập thể chất:
– Nội dung:
Là các tác động cấu thành bài tập và các quá trình cơ bản diễn ra trong cơ
thể phản ánh tác động của BTTC đối với người tập. Mỗi bài tập khác nhau có
nội dung khác nhau, quá trình sinh lý diễn ra cũng khác nhau. Những quá trình
16
này rất đa dạng và phức tạp chúng có thể được xem xét theo các quan điểm tâm
lý học, sinh lý học, sinh hoá, sinh cơ v.v…
Dưới góc độ tâm lý, BTTC là các động tác tự ý đó là những động tác được
điều khiển bằng trí tuệ và ý chí khác với động tác “vô ý thức”, tức là các động
tác phản xạ không điều kiện.
Việc thực hiện bài tập thể chất bao giờ cũng nhằm đạt được hiệu quả cụ thể
nói cách khác mỗi bài tập thể chất đều có mục đích tự giác. Để đạt được mục
đích con người phải tư duy tích cực, xác định phương hướng hành động đáng
giá điều kiện hành động và điều khiển động tác nỗ lực ý chí. Như vậy về mặt
tâm lý nội dung của bài tập thể chất là quá trình nhận thức cảm xúc và ý chí.
Xét về mặt sinh lý học, BTTC là sự chuyển cơ thể sang một mức hoạt động
chức năng cao hơn so với trạng thái không hoạt động. Những biến đổi sinh lý
trong vận động sẽ kích thích quá trình hồi phục và thích nghi sau đó.
VD: Thông khí phổi tăng hơn 30 lần, hấp thụ ôxy tăng 20 lần, lưu lượng
phút của máu tăng đến 10 lần hoặc hơn, tương ứng với quá trình đó các quá
trình đồng hoá và dị hoá cũng tăng lên. Nhờ đó BTTC trở thành một nhân tố
mạnh mẽ làm tăng cường khả năng chức phận và hoàn thiện cấu trúc cơ thể.
Khi xem xét nội dung BTTC theo quan điểm sư phạm thì điều quan trọng
không hẳn chỉ là những biến đổi sinh lý, sinh hoá diễn ra trong cơ thể, mà chủ
yếu là những khả năng do bài tập tạo ra để phát triển hợp lý năng lực con
người, cùng với việc hình thành kỹ xảo nhất định. Về mặt sư phạm tác động
của bài tập thể chất không chỉ hạn chế về mặt trong phạm vi sinh học mà còn
tác động đến tâm lý, ý thức hành vi con người.
– Hình thức của bài tập thể chất:
Hình thức của bài tập phụ thuộc vào đặc điểm nội dung của nó trong triết
học hình thức được hiểu là phương thức tồn tại của nội dung, là kết cấu của nội
dung cho nên hình thức BTTC là kết cấu bên trong và bên ngoài của nó.
– Cấu trúc bên trong của bài tập thể chất.
17
Là mỗi liên hệ qua lại tương hỗ phối hợp và tác động lẫn nhau giữa quá
trình sinh lý diễn ra trong cơ thể khi tập luyện.
VD: Các quá trình phối hợp thần kinh cơ, sự phối hợp qua lại giữa chức
năng vận động và thực vật, tương quan giữa khả năng yếm khí và ái khí trong
chạy sẽ khác trong đẩy tạ.
– Cấu trúc bên ngoài của bài tập thể chất:
Biểu hiện mỗi quan hệ không gian, thời gian và dùng sức tức là hình dáng
động tác có thể nhìn thấy được.
Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của bài tập thể chất.
hình thức và nội dung của bài tập thể chất có mỗi liên hệ hữu cơ với nhau.
Trong đó nội dung là mặt quyết định, nội dung đi trước và để đạt được mục
đích trong một bài tập nào đó thì phải thay đổi nội dung, sau đó hình thức mới
thay đổi sau cho phù hợp. Mặt khác hình thức cũng ảnh hưởng tới nội dung,
hình thức bài tập không phù hợp sẽ cản trở việc thực hiện nội dung.
VD: Người có kỹ thuật chạy sẽ đạt kết quả cao hơn người không có kỹ
thuật. Vì vậy hình thức phù hợp sẽ tạo điều kiện thực hiện nội dung.
Trong thực tế có những bài tập có nội dung khác nhau nhưng lại có hình
thức tương tự nhau (như chạy và đi bộ). Đồng thời có những bài tập có nội
dung giống nhau nhưng hình thức lại khác (nhau như chạy bơi cùng một cường
độ sinh lý).
I.2. CÁC NHÂN TỐ XÁC ĐỊNH SỰ TÁC ĐỘNG HỢP LÝ CỦA BÀI TẬP THỂ
CHẤT.
Tuỳ theo nội dung và hình thức mà mỗi bài tập thể chất đều gây tác động
nhất định đến cơ thể con người.
Vì cơ thể con người là khối thống nhất hoàn chỉnh, bất cứ một tác động nào
cũng gây nên sự biến đổi trong cơ thể cho nên trong quá trình tập luyện nếu
không dựa trên những quy luật GDTC thì sẽ mang lại tác hại đối với cơ thể.
Cho nên trong quá trình tập luyện TDTT để đạt được hiệu quả tốt nhất, ngoài
18
việc lựa chọ được các phương tiện và phương pháp tập luyện hợp lý thì người
tập cần phải chú ý đến các nhân sau đây.
– Bản thân bài tập.
Các bài tập khác nhau về cấu trúc, lượng vận động, về độ phức tạp và độ
mới lạ sẽ gây ra những phản ứng khác nhau trong cơ thể người tập.
VD: Bài tập bơi khác bài tập đi bộ, những bài tập khác nhau dẫn đến phản
ứng cơ thể cũng khác nhau.
– Đặc điểm cá nhân người tập.
Lứa tuổi, giới tính, trạng thái sức khoẻ, trình độ tập luyện…
Cùng một bài tập, đối tượng khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác
nhau hoặc cùng một lượng vận động trạng thái sức khoẻ khác nhau cũng khác
nhau.
– Điều kiện bên ngoài
Như thời tiết, địa điểm, điều kiện vệ sinh phòng tập, chất lượng dụng cụ tập
luyện
-Phương pháp tập luyện.
Tập phương pháp khác nhau dẫn đến phản ứng cơ thể cũng khác nhau. Ví
dụ phương pháp đồng đều khác phương pháp lặp lại với quãng nghỉ ngắn.
Như vậy, để có được hiệu quả định trước của việc sử dụng bài tập, người
tập phải trả lời được câu hỏi: Ai tập? tập cái gì? tập ở đâu? tập như thế nào?
I.3. Ý NGHĨA PHƯƠNG TIỆN CỦA CÁC NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
VÀ CÁC NHÂN TỐ VỆ SINH.
I.3.1. Các nhân tố của môi trường tự nhiên
Các nhân tố của môi trường tự nhiên như ánh sáng mặt trời, không khí và
nước, cũng là những phương tiện không kém phần quan trọng để củng cố sức
khoẻ, tôi luyện cơ thể và nâng cao khả năng hoạt động thể lực của con người,
trong quá trình giáo dục thể chất các nhân tố của môi trường tự nhiên được sử
dụng theo hai hướng.
19
– Bổ sung tăng cường và hợp lý hoá tác động của bài tập thể chất như luyện
tập trong điều kiện giàu ôxy bãi biển, tập dưới ánh nắng, tập trong điều kiện
thời tiết đồi núi.
– Sử dụng như một phương tiện độc lập để tôi luyên cơ thể, củng cố sức
khoẻ (tôi luyện là dùng những thủ pháp để nâng cao khả năng thích nghi của cơ
thể).
Một trong những kết quả cơ bản của việc sử dụng hợp lý các nhân tố môi
trường tự nhiên trong quá trình giáo dục thể chất là tôi luyện cơ thể tức là nâng
cao tính ổn định của cơ thể trước những thay đổi đột ngột của thời tiết. Tôi
luyện cơ thể trong phạm vi khả năng thích nghi cho phép sẽ có tác dụng củng
cố sức khoẻ và tăng cường khả năng hoạt động của thể lực của con người. Để
tôi luyện cần tôi luyện từ lứa tuổi nhỏ. Cơ thể cần sử dụng các phương tiện có
tác động trái ngược nhau đối với cơ thể như có thể dùng nước nóng lạnh.
I.3.2. Các nhân tố vệ sinh
Cũng có ý nghĩa như một nhân tố bổ sung của GDTC việc tuân thủ các quy
tắc vệ sinh trong quá trình giáo dục thể chất ở mức đáng kể quyết định hiệu quả
của bài tập thể chất. Điều quan trọng ở đây là phải đảm bảo những yêu cầu vệ
sinh của chế độ lượng vận động và quãng nghỉ. Vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh
môi trường tập luyện, dụng cụ, trang phục cũng như điều kiện thúc đẩy quá
trình hồi phục sau buổi tập, phòng bệnh và củng cố sức khoẻ. Mặc dù môi
trường tự nhiên và các điều kiện vệ sinh không phải là phương tiện chính của
giáo dục thể chất nhưng nó là các nhân tố bổ sung để làm tăng hiệu quả của quá
trình tập luyện và thi đấu.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
II.1. CƠ SỞ CẤU TRÚC CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
II.1.1. Lượng vận động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ bản của
phương pháp giáo dục thể chất.
Một trong những cơ sở quan trọng nhất của tất cả các phương pháp giáo
dục thể chất là phương pháp điều chỉnh lượng vận động và trật tự kết hợp
lượng vận động với nghỉ ngơi.
20
II.1.1.1. Khái niệm lượng vận động:
Lượng vận động trong các bài tập thể lực là mức độ tác động của chúng tới
cơ thể người tập. Nói cách khác thuật ngữ lượng vận động được dùng để chỉ sự
định lượng tác động của các bài tập thể lực. Lượng vận động dẫn đến những
diễn biến chức năng trong cơ thể như các trạng thái trước vận động, bắt đầu vận
động, ổn định, mệt mỏi. Sự tiêu hao năng lượng trong vận động cũng như mệt
mỏi nói chung chính là nguyên nhân tạo nên sự hoàn thiện cơ thể bằng vận
động. Mệt mỏi sau vận động không mất đi hoàn toàn mà để lại những “dấu
vết”. Quá trình tích luỹ những “dấu vết”, những biến đổi thích nghi đó sẽ làm
phát triển trình độ tập luyện. Như vậy, lượng vận động dẫn tới mệt mỏi và tiếp
đó là hồi phục thích nghi.
Hiệu quả của lượng vận động tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ của nó
nếu coi bài tập là một nhân tố tác động thì khái niệm khối lượng vận động là độ
dài thời gian tác động là tổng số lần vận động thể lực đã được thực hiện và
nhiều thông số khác. Cường độ vận động là sự tác động vào cơ thể của bài tập
vào mỗi thời điểm cụ thể, là mức căng thẳng chức năng, là trị số một lần gắng
sức… Lượng vận động chung của một số bài tập hay của cả buổi tập nói chung
được xác định thông qua cường độ và khối lượng trong mỗi bài tập.
Trong thực tế, người ta thường đánh giá tổng khối lượng vận động theo các
thông số riêng lẻ bên ngoài tuỳ theo đặc điểm bài tập. Ví dụ, khối lượng là tổng
số công và VĐV sinh ra trong suốt buổi tập, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, tổng số dộ
dài, tổng số thời gian, số lần lặp lại vv..
Cường độ: Được đánh giá bằng mức độ căng thẳng về mặt sinh lý sinh hoá
thực tế người ta tình bằng tốc độ trung bình. Ví dụ, tỉ lệ giữa kilômét chạy với
tốc độ cần thiết trên tổng số kilômét đã vượt qua trong buổi tập.
Các chỉ số tối đa của khối lượng và cường độ có liên quan tỷ lệ nghịch với
nhau lượng vận động có cường độ tối đa chỉ có thể kéo dài một số dây hoặc ít
hơn, ngược lại lượng vận động có khối lượng tối đa chỉ có thể thực hiện với
cường độ thấp. Vì cường độ bài tập càng cao thì khối lượng càng nhỏ và ngược
21
lại. Trong những bài tập có cường độ trung bình thì khối lượng vận động có thể
đạt tới những trị số lớn.
Người ta phân biệt lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài
– Lượng vận động bên trong: Là mức độ biến đổi sinh lý sinh hoá trong cơ
thể khi thực hện bài tập. Trong điều kiện nhất định thì lượng vận động bên
ngoài và lượng vận động bên trong tương ứng với nhau. Cường độ và khối
lượng vận động càng lớn thì mức độ biến đổi sinh lý, sinh hoá trong cơ thể
càng mạnh và ngược lại. Khi cơ thể ở những trạng thái khác nhau thì quan hệ
giữa lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài cũng đổi khác.
VD: Khi sử dụng một lượng vận động bên ngoài có hệ thống trong cơ thể
đã diễn ra những biến đổi thích nghi khi có lượng vận động không còn gây nên
những phản ứng mạnh mẽ như trước nữa. Hoặc cơ thể ở những trạng thái khác
nhau thì cùng một lượng vận động sẽ dẫn đến những phản ứng trả lời khác
nhau.
– Lượng vận động bên ngoài: Có thể xác định bằng những thông số vận
động theo các hệ số đo lường như thời gian, độ dài, trọng lượng các vật. Lượng
vận động bên ngoài dễ xác định nhưng chỉ một cách tương đối
VD: Quan sát bằng cảm giác chủ quan mệt hay không mệt, sắc thái, màu da
hay bắt mạch.
Lượng vận động bên trong phải thông qua các phương pháp kiểm tra y học.
VD: Xác định sự tiêu hao năng lượng, phân tích máu v.v…
Lập kế hoạch và điều chỉnh lượng vận động là nội dung cơ bản trong xây
dựng phương pháp giáo dục thể chất, song nếu chỉ dừng ở đó thì chưa đủ, hiệu
quả tập luyện còn phụ thuộc vào trật tự kết hợp một cách koa học giữa lượng
vận động và nghỉ ngơi tích cực có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục
sau vận động, thông thường người ta kết hợp hai hình thức nghỉ ngơi với nhau.
Ví dụ, giữa các lần tập nghỉ ngơi thụ động, giữa các loạt tập nghỉ tích cực.
Thời gian quãng nghỉ trong các phương pháp khác nhau được xác định tuỳ
theo mục đích của buổi tập và các quy luật của quá trình hồi phục.
22
II.1.1.2. Các quãng nghỉ trong phương pháp giáo dục thể chất
Căn cứ vào mức độ hồi phục sau vận động mà người ta phân biệt 3 quãng
nghỉ: Quãng nghỉ đầy đủ, quãng nghỉ ngắn, quãng nghỉ vượt mức.
– Quãng nghỉ đầy đủ: Là quãng nghỉ đảm bảo, cho lượng vận động tiếp
theo được thực hiện vào thời điểm khả năng vận động thể lực đã hồi phục tới
mức ban đầu, nhờ vậy khi lặp lại các chức năng không bị căng thẳng.
– Quãng nghỉ vượt mức: Là quãng nghỉ đảm bảo cho lượng vận động lặp lại
được tiến hành vào thời điểm diễn ra pha hồi phục vượt mức. Tức là dường như
xẩy ra trên nền nâng cao năng lực hoạt động, trên nền hiệu quả lưu lại từ buổi
tập trước.
– Quãng nghỉ ngắn: Là quãng nghỉ mà trong đó lượng vận động được lặp lại
vào thời điểm các chức năng riêng lẻ hoặc toàn bộ cơ thể chưa kịp hồi phục đầy
đủ. Với quãng nghỉ này lượng vận động bên trong ngày càng tăng lên.
II.2. Cấu trúc buổi tập TDTT
Dựa trên quy luật diễn biến khả năng hoạt động thể lực trong phạm vi buổi
tập và đặc biệt tổ chức hoạt động người tập, người ta chia buổi tập thành 3
phần: Chuẩn bị, cơ bản, kết thúc
– Phần chuẩn bị:
Xem thêm: [Lần đầu tiên làm chuyện ấy…] 1. Thưởng thức điệu múa Ganggangsullae :: KOREA.NET Mobile Site
Việc tổ chức cho một buổi tập cần phải chuẩn bị về dụng cụ sân bãi đầy đủ
sạch sẽ cho buổi tập.
Phần này cơ thể chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động gồm gồm
khởi động chung và khởi động chuyên môn để chuẩn bị cho những nhóm cơ
chính chịu lượng vận động của giờ học. Cấu trúc của phần chuẩn bị phải phù
hợp với phần cơ bản phần này chiếm từ 10- 15% thời gian của buổi tập.
– Phần cơ bản:
Phần cơ bản được dành để giải quyết các nhiệm vụ phức tạp nhất của buổi
tập. Tuỳ thuộc nội dung cụ thể, phần cơ bản có thể chia thành nhiều phần nhỏ.
Đây là phần chủ yếu của buổi tập được tiến hành khi năng lực hoạt động
đạt giá trị cao nhất. Phần này gải quyết những nhiệm vụ khó khăn khác nhau
23
của buổi tập như thực hiện những động tác mới, động tác phức tạp được bố trí
ngay vào đầu của phần cơ bản. Khi tập những động tác mới người tập cần nắm
vững quy luật hình thành và tiếp thu động tác. Giáo dục các tố chất thể lực cần
tiến hành giáo dục sức nhanh, sức mạnh, sức bền hoặc sức mạnh, sức nhanh,
sức bền. Trong các buổi tập thể thao, giai đoạn khả năng hoạt động thể lực tối
ưu được dành cho phát triển sức mạnh và sức mạnh tốc độ. Thông thường phần
này chiếm 70 – 80% thời gian buổi tập.
– Phần kết thúc:
Được tiến hành vào lúc năng lực hoạt động đã giảm xuống dần dần. Tổ
chức thu gọn dụng cụ tập luyện. Để thúc đẩy nhanh quá trình hồi phục trong
phần kết thúc người ta sử dụng các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, các động tác
đơn giản, các động tác vũ đạo, nghỉ ngơi tích cực để đưa cơ thể về trạng thái
bình thường. Phần này thời gian chiếm 5 – 10%.
Bài 3
24
CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP
TẬP LUYỆN TDTT
A. MỤC TIÊU
– Kể tên được các nguyên tắc
– Phân tích đặc điểm các nguyên tắc
B. NỘI DUNG
Những nguyên lý chung nhất để xác định toàn bộ phương hướng và tổ chức
hoạt động trong giáo dục thể chất là ba nguyên tắc chung. Ngoài ra còn có
những nguyên tắc về phương pháp giáo dục thể chất. Đó là những nguyên lý,
cơ sở khoa học – thực tiễn, dùng để xác định những yêu cầu cơ bản về cấu tạo,
nội dung, phương pháp tổ chức quá trình giáo dục thể chất nhằm đạt được hiệu
quả mong muốn. Các nguyên tắc nghiên cứu dưới đây một mặt phản ánh quy
luật của quá trình sư phạm mặt khác phản ánh quy luật đặc thù của giáo dục thể
chất. Hệ thống nguyên tắc bao gồm năm nguyên tắc.
III.1. NGUYÊN TẮC TỰ GIÁC TÍCH CỰC :
Nguyên tắc tự giác tích cực phản ánh quy luật tâm lý hoạt động. Hiệu quả
của quá trình tập luyện TDTT phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần thái độ bản
thân người tập việc hiểu được bản chất các nhiệm vụ cũng như tích cực thực
hiện chúng sẽ rút ngắn thời thực hiện bài tập, tạo điều kiện sử dụng sáng tạo
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vào cuộc sống. Nội dung của nguyên tắc thể hiện ở
yêu cầu sau.
Xây dựng thái độ tự giác và hứng thú đối với mục đích chung và nhiệm vụ
cụ thể của từng buổi tập.
Tiền đề cần thiết của thái độ này là động cơ tham gia hoạt động đó. Các nhà
tâm lý học Mác Xít cho rằng con người hoạt động là do động cơ tâm lý thúc
đẩy.
Động cơ hoạt động chi phối thúc đẩy con người hoạt động suy cho cùng là
nhu cầu Mác nói: “Trước nhất con người phải có ăn ở mặc. Không có nhu cầu
sống thì không lao động, nhu cầu thấp thì trình độ thấp”.
25
những hoạt động giải trí sống cơ bản : đi, chạy, nhảy, leo, trèo … Kỹ năng, kỹ xảo ngànhnghề du lịch, vui chơi … – Bản chất của thành phần thứ 2 trong giáo dục sức khỏe thể chất là sự ảnh hưởng tác động hợplý tới sự tăng trưởng năng lực hoạt động, bảo vệ tăng trưởng năng lượng hoạt động. Trong mạng lưới hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trídục, đạo đức, mỹ thuật và giáo dục lao động. Bên cạnh thuật ngữ GDTC người ta thường dùng thuật ngữ sẵn sàng chuẩn bị thểlực, về thực chất hai thuật ngữ này có ý nghĩa như nhau. Nhưng thuật ngữ thứ 2 thường được nhắc tới khi nhấn mạnh vấn đề tính thực dụng của GDTC so với laođộng hoặc những hoạt động giải trí khác. GDTC tích hợp những mặt giáo dục khác như : đức, trí, thể, mĩ nhằm mục đích phát triểncon người cân đối tổng lực. I. 2. Khái niệm tăng trưởng thể chấtThể chất chỉ chất lượng khung hình con ngườiPhát triển sức khỏe thể chất là qúa trình hình thành và đổi khác hình thái chức năngcơ thể diễn ra trong suốt cuộc sống mỗi cá thể ( chúng được hình thành trên vàtrong cái nền thân thể ấy ). I. 2.1. Hình thái : Thể chất con người hoàn toàn có thể nhìn thấy cân đo, đong đếm được, hình thái baogồm chiều cao cân nặng, những chỉ số vòng ngực vòng eo, vòng đùi, vòng cổ, vòng bụng, chiều dài bàn tay bàn chân v.v… toàn bộ những chỉ số đó hoàn toàn có thể cân đođong đếm được gọi là hình thái. I. 2.2 Chức năng : Các chỉ số về sinh lý sinh hoá, sinh cơ trong khung hình. VD : khối lượng của tim, mạch đập lưu lượng phút, lưu lượng tâm thu, thông khí phổi, hệ cơ xương, thần kinh.vv … I. 3 Quá trình tăng trưởng sức khỏe thể chất đồng thời là quy trình tự nhiên và quátrình Xã hội. 1.3.1. Quá trình tự nhiênPhát triển sức khỏe thể chất là quy trình tự nhiên vì nó tuân theo những quy luậtsinh học tự nhiên, như quy luật tăng trưởng sức khỏe thể chất theo lứa tuổi giới tính, quyluật thống nhất hữu cơ giữa khung hình và thiên nhiên và môi trường, quy luật đổi khác về hình tháidẫn đến biến hóa về công dụng, theo những quy luật biến hóa số lượng dẫn đếnthay đổi chất lượng … 1.3.1. Quá trình xã hộiTuy vậy sự tăng trưởng sức khỏe thể chất của con người còn chịu sự chi phối củamôi trường xã hội như điều kiện kèm theo sống vật chất, điều kiện kèm theo vệ sinh, điều kiện kèm theo laođộng, học tập, nghỉ ngơi. điều kiện kèm theo sống gồm có ; chê dộ dinh dưỡng, vi ta min, điều kiện kèm theo môitrường. Các điều kiện kèm theo này tác động ảnh hưởng đến sự tăng trưởng sức khỏe thể chất một cách tự phátnghĩa là với điều kiện kèm theo như nhà hàng rất đầy đủ, thiên nhiên và môi trường bảo vệ thật sạch vềnước không khí, ánh sang vv … lao động đúng mức thì sức khỏe thể chất tăng trưởng tốt vàngược lại. Giáo dục đào tạo : Tác động đến sự tăng trưởng sức khỏe thể chất 1 cách tự giác ( dữ thế chủ động, tích cực hài hòa và hợp lý ). Về thực chất giáo dục là quy trình tinh chỉnh và điều khiển sự tăng trưởng thểchất 1 cách hợp lý hoá. Vai trò của giáo dục còn biểu lộ ở chỗ hoàn toàn có thể khắc phục được những hậuquả xấu đi của lao động, học tập hoặc những hoạt động giải trí sống khác gây nên. VD : Như chữa những bệnh cong vẹo cột sống hoặc tăng trưởng mất cân đốigiữa những bộ phân khung hình, hồi sinh tính năng của những cơ quan bị tổn thương, thậm trí trải qua tập luyện hoàn toàn có thể tạo ra được những phẩm chất mà bản thândi truyền không có, VD : năng lực thao tác trên không trung hay dưới độ sâucủa nước … – Cả 3 yếu tố này diễn ra đồng thời, có quan hệ ngặt nghèo và bổ trợ chonhau trong việc tăng trưởng năng lực và nhân cách con người. Trên cơ sở yếu tốbẩm sinh di truyền là tiền đề cũng với điều kiện kèm theo sống tương thích bảo vệ tínhkhoa học và quy trình giáo dục diễn ra đúng lúc sẽ mang lại hiệu suất cao cao. * Tập luyện TDTT sẽ thôi thúc và nâng cao sự tăng trưởng sức khỏe thể chất nhưtăng cường sức khoẻ, thể hình đẹp, cân đối nâng cao những khả chức phận của cơthể như tim, phổi, hệ tim mạch, hô hấp … nâng cao và tăng trưởng những năng lực thểlực, sức đề kháng với bệnh tật, những năng lượng hoạt động cơ bản của cuộc sốngnhư chạy, nhảy, bò, trườn … ngoài những còn là tiềm năng để rèn luyện phẩm chấtđạo đức, hình thành nhân cách của con người và hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn một điềurằng người nào tập luyện TDTT 1 cách hài hòa và hợp lý thì chắc như đinh sẽ có sự phát triểnthể chất hơn hẳn người không tập luyện TDTT mà do sự tăng trưởng của những quyluật tự nhiên ( bẩm sinh di truyền ). I. 4. Khái niệm thể dục thể thaoKhoảng những năm 70 về trước thuật ngữ TD và TT đã được giải thíchbằng cách cắt nghĩa từng từ. Ví dụ : Thể là khung hình, dục là giáo dục ” giáo dục khung hình “, tuy nhiên thuật ngữTDTT vẫn rơi vào thực trạng chưa được xác lập nội dung đơn cử. Năm 1972 cuốn sách dịch tiên phong về lý luận và chiêu thức giáo dục sức khỏe thể chất đã nêuđược nội dung của khái niệm ” TDTT là tổng hoà những giá trị vật chất và tinhthần được phát minh sáng tạo ra trong qúa trình phát trển xã hội loài người trong lĩnh vựchoàn thiện sức khỏe thể chất cho con người “. Thuật ngữ TDTT được dùng lần đầu tiênvào cuối thế kỷ 19 trong ngôn từ Anh SPORT.Gần đây trong quy trình tăng trưởng khái niệm TDTT ngày càng hoàn thiệnđược bổ trợ những nội dung mới, theo sự tăng trưởng của nhận thức xã hội sựhiểu biết tăng trưởng – khái niệm tăng trưởng. Thực ra nếu dịch theo đúng từ điểnthì thuật ngữ thể dục thể thao đang dùng phải mang tên là văn hoá sức khỏe thể chất. Như vậy thuật ngữ TDTT đồng nghĩa tương quan với VHTC.Muốn hiểu được văn hoá sức khỏe thể chất hay TDTT ta cần đi sâu nghiên cứu và điều tra kháiniệm văn hóa truyền thống. Trong những ngôn từ của những dân tộc bản địa trên quốc tế có hàng trămnghĩa khác nhau. Thông thường người ta dùng thuật ngữ văn hoá để chỉ nhữnghoạt động niềm tin của con người và xã hội, chỉ trình độ học vấn của loàingười, văn hoá cũng thường dùng để chỉ hành vi cử chỉ con người ” người thiếuvăn hóa ” những hành vi văn minh. Trong khoa học những tài liệu gốc theo từ điển triết học bách khoa toàn thưngười ta định nghĩa ” Văn hoá là hoạt động giải trí của con người và toàn xã hội nhằmcải tạo tự nhiên. Như vậy văn hoá chính là hoạt động giải trí của con người nhằm mục đích vàotự nhiên ( Cày bừa cuốc xới tái tạo tự nhiên để cung ứng cho con người để lạinhững di sản hoạt động giải trí gọi là văn hoá ). Trong những tài liệu văn minh, nội dung khái niệm văn hoá đa dạng và phong phú và đadạng hơn. Văn hoá gồm có hoạt động giải trí phát minh sáng tạo của con người chinh phục tựnhiên, những phương tiện đi lại, giải pháp hoạt động giải trí và những tác dụng hoạt độngđem lại cho cá thể và xã hội. Trong quy trình tăng trưởng của xã hội loài ngườiđã phát sinh một loại hoạt động giải trí đặc biệt quan trọng, nó không chỉ tác động ảnh hưởng vào tự nhiênbên ngoài mà tác động ảnh hưởng vào ngay phần tự nhiên trong con người, đó là cơ thểcon người. Cơ thể con người gồm 2 phần : Thực thể tự nhiên ( thể xác ) và thựcthể xã hội ( niềm tin ). Vậy TDTT được hiểu là sự rèn luyện khung hình tái tạo khung hình bằng sự vận độngtích cực của cơ bắp. Đối tượng của TDTT là tinh chỉnh và điều khiển quy trình tăng trưởng thểchất của con người. Để nghiên cứu và phân tích sâu hơn khái niệm TDTT được xem xét 3 quan điểm. – TDTT là một hoạt động giải trí. Đây là một hoạt động giải trí của con người, nó là một hoạt động giải trí có đối tượng người tiêu dùng làcon người, đặc biệt quan trọng của hoạt động giải trí này là một hoạt động giải trí tương hỗ bổ trợ cho hoạtđộng chính cơ bản. Nó là một hoạt động giải trí phụ làm tăng hiệu suất cao của hoạt độngchính. Nó là hoạt động giải trí phụ bổ trợ nâng cao hiệu suất cao hoạt động giải trí sống cơ bản. TDTT sinh ra gắn liền với lao động đơn cử gắn liền với nghề săn bắn. Nghề sănbắn yên cầu con người phải có sức mạnh khôn khéo bền chắc, phải có kiến thức và kỹ năng leotrèo rình rập bò trườn và đặc biệt quan trọng là lao ném. Nhờ có ý thức tăng trưởng mà conngười nhận thức được mối liên hệ nhân quả giữa sẵn sàng chuẩn bị trước cho lao độngvà hiệu quả lao động vì thế nó phát sinh hình thức tập luyện để chuẩn bị sẵn sàng trướccho lao động. Ở những nước Châu Phi, Lục địa châu úc còn lại những di tích lịch sử chứng tỏngười cổ xưa đã tập luyện săn bắn như hình vẽ của quái vật trên đá. Vậy nó là hoạt động giải trí sẵn sàng chuẩn bị cho lao động, đi trước lao động để làm tănghiệu quả của lao động, Giao hàng cho lao động đây là công dụng xã hội vốn cócủa TDTT và lúc đó giáo dục sức khỏe thể chất cũng thuộc phạm trù vĩnh hằng. Cùngvới sự tăng trưởng của xã hội loài người, đặc thù của lao động đổi khác lao độngchân tay ngày càng giảm nhẹ lao động trí óc và lao động bằng máy ngày càngtăng lên. Nhưng mối quan hệ giữa TDTT với lao động không hề bị xoá bỏ. Nếunhư trước đây TDTT liên hệ trực tiếp với lao động mang tính thực dụng trựctiếp nhưng thời nay nó mang đặc thù gián tiếp. Ảnh hưởng của nó là nângcao sức khoẻ, chúng thôi thúc nhanh quy trình phục sinh sau lao động nâng caokhả năng hoạt động giải trí thể lực. – TDTT là tổng hoà giá trị vật chất và tinh thầnĐó là những công cụ phương tiện đi lại được phát minh sáng tạo ra ảnh hưởng tác động vào tự nhiên, đó là nhưng giá trị vật chất và ý thức được tàng trữ và truyền bá ví dụ : Xâynhà phải có những giải pháp dụng cụ phát minh sáng tạo ra gọi là văn hoá ( trongtrường hợp này TDTT gồm có những môn tập những bài tập mà con ngườisáng tạo ra như thể dục nhịp điệu, thể dục thể hình, chiêu thức tập luyện ) được sử dụng trong tranh tài và tập luyện. – TDTT là hiệu quả của hoạt động giải trí. Kết quả của tập luyện TDTT biểu lộ ngay trên chính khung hình con người đólà sức khoẻ, sức khỏe thể chất tăng trưởng, kỷ lục thể thao, trào lưu thể thao. Vậy TDTTtheo nghĩa hẹp là : Bộ phận hữu cơ của nền văn hoá xã hội … Theo nghĩa rộnglà tổng hoà những giá trị vật chất và ý thức loài người phát minh sáng tạo ra trong lĩnhvực tập luyện. II. NGUỒN GỐC CỦA THỂ DỤC THỂ THAO VÀ CHỨC NĂNG VỐN CÓ.Thể dục thể thao sinh ra tăng trưởng theo sự tăng trưởng của xã hội loài người. Lao động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của thể dục thể thao. Nói cách khác, đólà cơ sở sống sót của tổng thể mọi hoạt động giải trí, là hoạt động giải trí thực tiễn cơ bản nhất. Thể dục thể thao được phát sinh trong những điều kiện kèm theo hoạt động và sinh hoạt vật chất nhấtđịnh của xã hội đặc biệt quan trọng là săn bắt. Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh sống bằng sănbắt là bộ phận kinh tế tài chính sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng đa phần nhất của thời đó. Ngay trong quy trình xử lý những yếu tố thiết thân : Ăn, ở, mặc … củamình. Tất cả mọi hoạt động giải trí của con người đều ship hàng săn bắn. Nhờ săn bắtcon người kiếm được thức ăn và 1 số ít vật phẩm tiêu dùng. Chính vì vậymuốn có được thức ăn và sống được bảo đảm an toàn, họ luôn phải đấu tranh với thiêntai và thú dữ, con người phải biết leo trèo, lội qua suối, bơi qua sông v.v… Nóicách khác săn bắt là cuộc thi giữa con người và con vật về sức nhanh và sứcmạnh, sức bền. Thực tế đấu tranh quyết liệt để sống sót đó buộc con người phảibiết sẵn sàng chuẩn bị, dạy và học. Đây chính là điều kiện kèm theo khách quan đề sinh ra TDTDmặt khác do hoạt động giải trí tư duy có rất sớm những kinh nghiệm tay nghề hoạt động giải trí của conngười được lặp lại nhiều lần trong đời sống và dần được tích luỹ lại đã làmcho con người nhận thức được hiện tượng kỳ lạ tập luyện, vì họ hiểu rằng chạy nhiềuthì chạy càng nhanh, càng dẻo dai hiệu suất cao của cuộc săn bắt càng tốt hơn. Vì vậy trong quy trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện là cầnthiết để chuẩn bị sẵn sàng cho lao động, để lao động được khoẻ dẻo dai bền chắc cho nênngười ta tập động tác tựa như như ném, leo trèo dần già quy trình lao động vàtập luyện con người đã tích luỹ được thêm nhiều hiểu biết để truyền từ thế hệnày sang thế hệ khác. Đây chính là điều kiện kèm theo chủ quan của sự sinh ra của TDTT.Vậy công dụng vốn có của TDTT là chuẩn bị sẵn sàng cho lao động đi trước lao độngtrong thời kì này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triểncủa loài người đặc biệt quan trọng là sự tăng trưởng KH – KT ngày càng tăng trưởng nó giảmnhẹ sức lao động của con người, thay vào đó là những máy móc tân tiến tinh vichủ động, con người chỉ cần tinh chỉnh và điều khiển thì vai trò của TDTT lại mang tính thựcdụng gián tiếp nó chuẩn bị sẵn sàng thể lực cho con người ngoài ra nó còn nhiều vai tròchức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể dục vệ sinh, TD trong thời hạn thảnh thơi, TD phục sinh làm cho con người có trạng thái thoảimái để bước vào lao động đạt hiệu suất cao cao. Như vậy TDTT Open cùng với sự hình thành của xã hội loài ngườiTDTT trở thành giải pháp quan trọng để sẵn sàng chuẩn bị cho lao động mà lao động làđiều kiện tự nhiên để bảo vệ cho đời sống. Xã hội loài người càng phát triểnTDTT cũng theo đà đó mà tăng trưởng cho nên vì thế TDTT là một hiện tượng kỳ lạ xã hộinó thuộc phạm trù vĩnh cửu với ý nghĩa Open cùng với sự Open của XHloài người sẽ tiến triển theo quy trình tiến triển của XH sẽ sống sót mãi mãi nhưnhững điều kiện kèm theo tất yếu của nền sản xuất. III. TÁC DỤNG CỦA TẬP LUYỆN THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐI VỚI CƠ THỂCơ thể con người là một khối thống nhất. Tất cả những mạng lưới hệ thống, cơ quantrong khung hình có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Khi ta vậnđộng ( tập luyện TDTT ) thì không những cơ bắp hoạt động giải trí mà tim, phổi, hệthần kinh, hệ bài tiết … đều tăng cường hoạt động giải trí và chịu ảnh hưởng tác động rõ ràng. Tập luyện TDTT có tính năng làm cho những tổ chức triển khai cơ quan trong khung hình thayđổi hình thái và nâng cao năng lượng hoạt động. Hai mặt đó luôn liên qua mật thiếtvà ảnh hưởng tác động lẫn nhau ( cấu trúc đổi khác dẫn đến tính năng đổi khác ). Hoạt động TDTT là một trong những hoạt động giải trí hoạt động tích cực thực hiệntrong những điều kiện kèm theo phức tạp của quốc tế tự nhiên. Phương tiện hoạt độngTDTT gồm có những bài tập thể chất, những điều kiện kèm theo tự nhiên như : ánh sáng, khôngkhí, nước, bức xạ mặt trời … và những nhu yếu về vệ sinh, chính vì thế mà tậpluyện TDTT có ảnh hưởng tác động và ảnh hưởng tác động tốt so với thể người tập. Tập luyện TDTT là chiêu thức phòng bệnh tích cực, tăng cường sức đềkháng cho khung hình, chống bệnh tật, tạo điều kiện kèm theo cho khung hình tăng trưởng tự nhiên, cân đối, tăng cường sức khoẻ và lê dài tuổi thọ. Nâng cao năng lượng hoạt động giải trí của khung hình, góp thêm phần rèn luyện những phẩmchất đạo đức – ý chí thiết yếu cho con người, tăng trưởng tổng lực những tố chấtvận động : sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ mềm dẻo và sự khôn khéo. Tập luyện TDTT sẽ góp thêm phần khắc phục thay thế sửa chữa được một số ít khuyết tậtcủa khung hình và những hiệu suất cao xấu đi của hoạt động giải trí lao động và học tập gây ra ( chữa những bệnh cong vẹo cột sống, bẹt bàn chân ), phòng chống bệnh nghềnghiệp và góp thêm phần quan trọng vào việc điều trị, hồi sinh tích cực những cơ quanvận động và 1 số ít bệnh lý khác. Thông qua hoạt động giải trí TDTT một cách có mạng lưới hệ thống sẽ nâng cao được khảnăng trao đổi chất trong khung hình, góp thêm phần tích cực nâng cao sức khoẻ, giúp cơthể tăng trưởng tự nhiên cân đối hài hoà về sức khỏe thể chất, nâng cao được cường độhoạt động, năng lực cân đối, độ linh động, năng lực nghiên cứu và phân tích – tổng hợpcủa hệ thần kinh, từ đó nâng cao năng lượng thích ứng của khung hình so với nhữngthay đổi của thời tiết, khí hậu và thực trạng, tạo điều kiện kèm theo thích nghi với môitrường sống. Ngoài ra TDTT còn giúp cho người tập có được niềm tin sảngkhoái, nâng cao năng lượng trí tuệ giảm stress. Do vậy, tập luyện TDTT tiếp tục có ảnh hưởng tác động rất lớn tới chấtlượng đời sống cũng như năng lượng công tác làm việc, lao động, học tập của con người, làm đổi khác theo hướng tích cực và và nâng cao năng lực làm viêc của những hệthống cơ quan trong khung hình, nhờ đó hoàn toàn có thể tao ra những phẩm chất, năng lực màbẩm sinh di truyền không có được : như thao tác trong môi trường tự nhiên chân khôngcủa cá nhà du hành ngoài hành tinh, điều kiện kèm theo áp suất cao như thợ lặn. Nhưng một điều cần quan tâm là những tác động ảnh hưởng của GDTC phải trong giớihạn được cho phép nhất định. Trong những tác nhân về đặc thù hình thái chức năngcủa khung hình có những tác nhân ít chịu tác động ảnh hưởng của tập luyện mà chịu sự chiphối của bẩm sinh và di truyền, đó là những đặc thù “ bảo thủ ” của khung hình. Như so với phụ nữ tập luyện TDTT hoàn toàn có thể làm cho vòng eo nhỏ lại nhưng lạikhông thể làm cho vòng ngực lớn ra. Tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng thể chấtlà bẩm sinh di truyền còn khuynh hướng, vận tốc tăng trưởng lại chịu tác động ảnh hưởng lớncủa những điều kiện kèm theo hoạt động và sinh hoạt, vật chất, chế dộ sống, chính sách lao động, học tập vànghỉ ngơi đặc biệt quan trọng là quy trình giáo dục. IV. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT.IV. 1. Mục đích : Mục đích của giáo dục hay nói đúng hơn là mục tiêu mà con người và xãhội đề ra cho mình trong nghành giáo dục. Mục đích là sự dự báo tác dụng củahoạt động cần đạt được, mục tiêu giáo dục là sự phản ánh những nhu cầukhách quan của xã hội, không hề đặt ra mục tiêu một cách tuỳ tiện. Một trong những tác nhân khách quan cơ bản của mục tiêu GDTC là nhữngyêu cầu của nền sản xuất xã hội so với sức khoẻ, sức khỏe thể chất và trình độ thể lựccủa con người. Chức năng vốn có của GDTC là sẵn sàng chuẩn bị cho lao động nó tồntại vĩnh hằng cùng với lao động, chính nền sản xuất lớn XHCN yên cầu conngười tăng trưởng tổng lực về sức khỏe thể chất và niềm tin. Các Mác nói ” Đến một giaiđoạn nào đó trong xã hội tất yếu phát sinh yếu tố sửa chữa thay thế những công nhân chỉđơn giản thực thi công dụng lao động bằng những cá thể tăng trưởng toàndiện “. Chính những người phát minh sáng tạo ra chủ nghĩa Mác đã nhận ra nhu yếu kháchquan về con người tăng trưởng tổng lực có từ thời cổ xưa trong kho tàng trí tuệcủa loài người. Nguyên nhân khách quan thứ hai quyết định hành động mục tiêu của giáo dục thểchất là những nhu yếu củng cố quốc phòng của quốc gia, trong bất kể tình thếnào mỗi vương quốc đều phải triển khai tính năng quốc phòng ( qua năm thời kỳnô lệ – CNCS ) đều có quân sự chiến lược trong TDTT. Một trong những thành phần quantrọng nhất tạo nên sức mạnh quân sự chiến lược là trình độ chuẩn bị sẵn sàng thể lực cho chiến sỹ. Phương tiện kỹ thuật văn minh yên cầu quân sự chiến lược phải tiếp thu và sử dụng chúngcó hiệu suất cao trong những trường hợp chiến đấu, nhu yếu tối đa về hoạt động giải trí thể lựcvà ý thức. Mục đích của giáo dục sức khỏe thể chất XHCN là sự phản ánh nhu yếu đơn cử củaxã hội có cội nguồn từ lao động, tuy nhiên điều đó không có nghĩa giáo dục thể chấtchỉ trọn vẹn nhằm mục đích tới sức khoẻ thoả mãn nhu yếu thực dụng xã hội. Mục đíchcủa giáo dục sức khỏe thể chất và mục tiêu của giáo dục nói chung trong chính sách XHCNphải là sự phản ánh nguyên tắc cao nhất của CNCS ” tổng thể vì con người “. Tínhnhân đạo cao quý của thực tiễn giáo dục XHCN còn biểu lộ ở chỗ lần đầu tiêntrên cơ sở trong thực tiễn xoá bỏ xích míc giữa tính năng xã hội thực dụng của giáodục và phân phối không thiếu quyền lợi tăng trưởng tổng lực cân đối của mọi thành viêntrong xã hội. Mục đích của GDTC trong những trường ĐH là góp thêm phần triển khai nụctiêu đào tạo và giảng dạy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản trị kinh tế tài chính và văn hoá xãhội, tăng trưởng hài hoà, cường tráng, cung ứng nhu yếu trình độ nghề nghiệpvà có năng lực tiếp cận với thực tiễn lao động sản xuất … của nền kinh tế tài chính thịtrường. Mục đích của GDTC đựơc cụ thể hoá trong 3 nhóm nhiệm vụIV. 2. NHIỆM VỤ.IV. 2.1. Nhóm trách nhiệm giáo dục sức khỏe thể chất theo nghĩa hẹp. 10 ” Giáo dục đào tạo khung hình ” củng cố và tăng cường sức khoẻ tăng trưởng tổng lực cânđối, hình thái tính năng khung hình, tăng trưởng tổng lực những năng lực hoạt động và khảnăng hoạt động giải trí thể lực. – Nhóm trách nhiệm này được bảo vệ tăng trưởng tổng lực những năng lực nhanh, mạnh, bền, khôn khéo, chúng là tác nhân tổng hợp hầu hết của năng lực vậnđộng, giáo dục những năng lực thể lực và còn có ý nghĩa sức khoẻ. Chính sức khoẻlại pháp luật tự nhiên triển khai xong hình thái tính năng khung hình trải qua vận độngcó mạng lưới hệ thống ” Không có gì làm, kiệt quệ và huỷ hoại khung hình bằng sự thiếu vậnđộng lê dài ” Arixtôt. Đồng thời trách nhiệm giáo dục sức khoẻ trong giáo dục sức khỏe thể chất cũng đượcgiải quyết tương đối độc lập đó là dùng những thủ pháp tôi luyện khung hình nâng caokhả năng thích nghi trước những biến hóa bất thần của thời tiết. Ví Dụ : Tập làm quen với nước lạnh, tạo ra sức khoẻ một cách trực tiếp vàđảm bảo nhu yếu vệ sinh trong hoạt động và sinh hoạt. – Hoàn thiện thể hình. Trong mạng lưới hệ thống giáo dục sức khỏe thể chất XHCN trách nhiệm hoàn thành xong thể hìnhkhông có nghĩa độc lập. Về việc triển khai xong thể hình chỉ đúng đắn chừng nào nó không trở thànhmục đích duy nhất, mà phải ship hàng cho nhu yếu tăng trưởng tổng lực thể lựcphẩm chất và năng lượng con người, trong 1 số ít trường hợp việc triển khai xong hìnhthể có ý nghĩa phòng chữa bệnh và chỉnh hình. IV. 2.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng sức khỏe thể chất : Hình thành và triển khai xong kiến thức và kỹ năng kỹ xảo, quan trọng trong đời sống kể cảkỹ xảo thực dụng trực tiếp và thể thao, trang bị kỹ năng và kiến thức trình độ. Nhiệm vụ giáo dưỡng được đặt ra bởi năng lực hoạt động của con ngườiđược thể hiện trong những kỹ năng và kiến thức hoạt động, nói cách khác muốn có trình độ chuẩnbị thể lực chỉ tăng trưởng những năng lực hoạt động thì chưa đủ. Nội dung đơn cử của việc giáo dưỡng ở những tiến trình khác nhau trong quátrình giáo dục sức khỏe thể chất nhiều năm nhờ vào vào kinh nghiệm tay nghề hoạt động mà con11người đã tiếp thu được và lôgíc chuyển tiếp từ kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo đơn thuần đến kỹxảo phức tạp còn năng khiếu sở trường cá thể phụ thuộc vào vào đặc thù hoạt động giải trí vànhiều tác nhân khác. Quy tắc chung là chuyển dần từ giáo dưỡng chung thoáng rộng sang hoàn thiệnsâu kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo hoạt động. Giáo dưỡng chung, đi, chạy, nhảy, leo trèo cácbài tập đơn thuần chuyển từ kiến thức và kỹ năng cơ bản đã là những kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo thể thao. Một nội dung quan trọng của giáo dưỡng sức khỏe thể chất là trang bị những kiếnthức trình độ cũng như tiếp tục bổ trợ vận dụng chúng trong thựctiễn. Đó là những kiến thức và kỹ năng làm tiền đề cho việc tiếp thu kỹ xảo ( sự hiểu biết kỹthuật, những kỹ năng và kiến thức về vệ sinh tập luyện, giải pháp tập luyện tranh tài, những quan điểm về ý nghĩa xã hội của GDTC ). IV. 2.3. Nh iệm vụ hình thành nhân cách con ngườiĐây là quy trình hình thành nhân cách cho con người, trách nhiệm giáo dụcChủ nghĩa Cộng sản. Rõ ràng những trách nhiệm phức tạp để hình thành nhâncách hoàn hảo chỉ được xử lý trong điều kiện kèm theo thống nhất hữu cơ những mặtgiáo dục riêng không liên quan gì đến nhau với giáo dục đạo đức. Giáo dục đào tạo đạo đức có vẻ như xuyênsuốt hàng loạt thực tiễn giáo dục xã hội, xuyên suốt những mặt giáo dục và hìnhthức giáo dục. Bởi vì hiệu suất cao ở đầu cuối của bất kể mặt giáo dục nào cũng phụthuộc đa phần vào xử lý tổng lực trách nhiệm hình thành lý tưởng tiêu chuẩnđạo đức, thói quen đạo đức. Tính giai cấp của giáo dục chính là hình thànhnhân cách đặc trưng cho chính sách xã hội. Giáo dục đào tạo đạo đức có vẻ như xuyênsuốt hàng loạt quy trình giáo dục xã hội, xuyên suốt bất kỳ bộ phận, góc nhìn, hình thức nào của thực tiễn đó. Bởi vì đạo đức là một thành viên xã hội, để điềuchỉnh hành vi của con ngườiĐể kiểm soát và điều chỉnh hành vi của con người mỗi chính sách xã hội đặt ra những chuẩnmực pháp luật thái độ của con người so với bản thân, bè bạn, mái ấm gia đình, tập thể, vương quốc. Trong quy trình giáo dục sức khỏe thể chất tất cả chúng ta cũng phải xử lý nhiệm vụnày, so với trí dục cũng vậy nhất là những môn xã hội học văn học. 12B ên cạnh việc giáo dục đạo đức, tất cả chúng ta cần thực thi giáo dục ý chí. Ýchí là năng lực của con người tập trung chuyên sâu sức mạnh ý thức để khắc phụcnhững khó khăn vất vả trong quy trình hoạt động giải trí và trong quy trình sống. Chỉ có những người có ý chí, có bản lĩnh mới vượt qua được trở ngại trênđường đạt tới mục tiêu. Trong hành vi của con người gọi là hành vi ý chíkhác hành vi bản năng, trong hoạt động giải trí con người khi nào cũng đặt chomình một cái đích đạt tới. Muốn đạt được mục tiêu đó yên cầu phải có ý chí. Những biểu lộ của ý chí trong một con người thường thấy cương quyết, tự tin, kiên trì, nhẫn nại, quả cảm. Trong quy trình giáo dục sức khỏe thể chất phải kếthợp những nét về giáo dục ý chí. Đây không phải là trách nhiệm đặc trưng nhưng nhất thiết phải làm vì đây lànhiệm vụ xuyên suốt hàng loạt mạng lưới hệ thống giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN1. Phân tích khái niệm GDTC ? 2. Phát triển sức khỏe thể chất là gì ? 3. Sự tăng trưởng sức khỏe thể chất của con người tuân theo những quy luật nào ? 4. Phân tích khái niệm TDTT ? 5. Trình bày nguồn gốc của TDTT ? 6. Tác dụng của việc tập luyện TDTT so với cơ thể7. Trình bày mục tiêu và những trách nhiệm của GDTC ? 13B ài 2C ÁC PHƯƠNG TIỆN – PHƯƠNG PHÁPVÀ CÁC NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC THỂ CHẤTA. MỤC TIÊU – Phân tích được bài tập thể chất là phương tiện đi lại trình độ cơ bảncủa giáo dục sức khỏe thể chất. – Trình bày được những tác nhân ảnh hưởng tác động hài hòa và hợp lý tới hiệu suất cao của bài tậpthể chất và đặc thù những tác nhân thiên nhiên và môi trường tự nhiên và điều kiện kèm theo vệ sinh. – Trình bày được lượng hoạt động và quãng nghỉ là yếu tố thành phầncơ bản của giáo dục sức khỏe thể chất. – Mô tả được cáu trúc buổi tập thể dục thể thao. B. NỘI DUNGI. CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC THỂ CHẤTĐể đạt mục tiêu giáo dục sức khỏe thể chất người ta sử dụng tổng hợp những phươngtiện khác nhau kể cả những phương tiện đi lại chung cho quy trình sư phạm. Cácphương tiện giáo dục giáo dục sức khỏe thể chất được sử dụng để ảnh hưởng tác động đến những đốitượng tập luyện nhằm mục đích đạt được những mục tiêu của giáo dục sức khỏe thể chất. Chúngbao gồm những bài tập thể dục thể thao, những tác nhân môi trường tự nhiên tự nhiên, điềukiện vệ sinh. Trong đó bài tập thể chất là phương tiện đi lại trình độ cơ bản của GDTC.I. 1. BÀI TẬP THỂ CHẤT LÀ PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN MÔN CƠ BẢN CỦAGIÁO DỤC THỂ CHẤT.I. 1.1. Khái niệm bài tập thể chất : Bài tập thể chất là những hành vi hoạt động của con người, được lựa chọnđể xử lý những trách nhiệm của giáo dục sức khỏe thể chất. Trong đời sống con người triển khai những hành vi hoạt động như laođộng, đi dạo, hoạt động và sinh hoạt, tiếp xúc. Thông qua hoạt động giải trí con người biểu thịnhu cầu xúc cảm và thái độ tích cực so với quốc tế bên ngoài. Song khôngphải tổng thể những hành vi đó đều gọi là bài tập thể chất. Đặc điểm quan14trọng nhất của bài tập thể chất là sự tương thích giữa hình thức và nội dung của bàitập sức khỏe thể chất. Ví dụ : Những hình thức hoạt động cơ bản của con người như đi, chạy, nhảyv. v … hoàn toàn có thể trở thành bài tập thể chất khi chúng có hình thức hài hòa và hợp lý theo quanđiểm giáo dục sức khỏe thể chất và tạo ra được những quy trình biến hóa tính năng của cơthể ở mức độ thiết yếu, tương thích với nhu yếu giữ gìn sức khoẻ, nâng cao những tốchất thể lực, hoàn thành xong những kiến thức và kỹ năng hoạt động v.v… Như vậy bất kể động tácnào của lao động và đời sống cũng hoàn toàn có thể được cải biến để trở thành phươngtiện giáo dục sức khỏe thể chất. Như vậy bài tập thể chất nhất thiết không phải là nhữngmôn thể thao. Dấu hiệu đặc trưng của bài tập thể chất là sự lặp đi lặp lại động tác, chỉ cólặp lại nhiều lần một hành vi hoạt động nào đó mới hoàn toàn có thể hình thành kỹ năngkỹ xảo, hoặc làm tăng trưởng năng lực thể lực. I. 1.2. Nguồn gốc bài tập thể chất : Các khu công trình điều tra và nghiên cứu lịch sử dân tộc cho thấy bài tập thể chất đã xuất hiệncùng với sự Open của xã hội loài người trong quy trình lao động. Nhân tốquan trọng nhất làm phát sinh BTTC là điều kiện kèm theo sống vật chất và hoạt động giải trí củacon người mà trước nhất là lao động, những bài tập thể chất tiên phong có liên hệtrực tiếp với những động tác lao động ngoài lao động những hoạt động giải trí quân sự chiến lược, nghệthuật, tôn giáo v.v… cũng ảnh hưởng tác động tới sự tăng trưởng bài tập thể chất, những bàitập phát sinh và phân phối nhu yếu lao động được gọi là bài tập tự nhiên. Nhưngxã hội loài người ngày càng tăng trưởng những bài tập tự nhiên mất dần tính thựcdụnh trực tiếp, người ta phát minh sáng tạo ra những bài tập không có những động tácgiống tự nhiên, ( do sản xuất ngày càng tăng trưởng sự văn minh của máy móc ) sựgián tiếp nhiều cho nên vì thế BTTC mất dần tính thực dụng trực tiếp từ từ những bàitập tự nhiên được sửa chữa thay thế bằng những bài tập nghiên cứu và phân tích. Đó là những bài tập đượcsáng tạo để xử lý những trách nhiệm giáo dục, giáo dưỡng và chữa bệnh. Ví dụ : Các bài tập thể dục vệ sinh buổi sáng, những bài tập thể dục thể hình, những bài tập thể dục dụng cụ … 15 – Sự độc lạ giữa bài tập thể chất và lao động chân tay. Giống nhau : Đều là sự hoạt động của cơ bắp với những cơ chế biến đổi vềsinh cơ, sinh lý, sinh hoá … tương tự như nhau. Nhưng không hề coi hai hiện tượngđó có cùng một thực chất mà giữa chúng có sự độc lạ cơ bản. Bài tập thể chấtLao động chân tayBTTC ảnh hưởng tác động vào con ngườiLĐCT tác động ảnh hưởng vào tự nhiênMục đích : Tăng cường sức khoẻMục đích : Tạo ra của cải vật chất – chữa bệnh nghề nghiệp – Gây bệnh nghề nghiệp – Tạo ra những năng lực thể lực mới – Phát minh ra những phươngphápmà bẩm sinh di truyền không có đượcđể tái tạo tự nhiên. Lao động là quy trình con người ảnh hưởng tác động vào tự nhiên, tái tạo tự nhiên bắttự nhiên phân phối nhu yếu của mình, qua lao động con người tái tạo chính bảnthân mình. Song sự tác động ảnh hưởng đó chỉ mang tính tự phát. Trong sản xuất hiện đạilao động chân tay được giảm nhẹ sẽ làm thu hẹp hoạt động thể lực và hiệu quả làhạn chế sự tăng trưởng sức khỏe thể chất của con người. Trong khi đó bài tập thể chất ảnh hưởng tác động tới khung hình theo quy luật của quá trìnhgiáo dục nhờ bài tập thể chất ta hoàn toàn có thể xu thế tác động ảnh hưởng con người để pháttriển sức khỏe thể chất và niềm tin của họ. Như vậy TDTT và lao động chân tay có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau đượcthể hiện ỏ chỗ. TDTT sau khi được hình thành trên cơ sở lao động đã trở thànhmột hoạt động giải trí không hề sửa chữa thay thế được của việc làm chuẩn bị sẵn sàng cho lao động. để điều tra và nghiên cứu sâu hơn về thực chất của bài tập thể chất tất cả chúng ta cần phântích nội dung và hình thức của BTTC.I. 1.3. Nội dung và hình thức của bài tập thể chất : – Nội dung : Là những tác động ảnh hưởng cấu thành bài tập và những quy trình cơ bản diễn ra trong cơthể phản ánh ảnh hưởng tác động của BTTC so với người tập. Mỗi bài tập khác nhau cónội dung khác nhau, quy trình sinh lý diễn ra cũng khác nhau. Những quá trình16này rất phong phú và phức tạp chúng hoàn toàn có thể được xem xét theo những quan điểm tâmlý học, sinh lý học, sinh hoá, sinh cơ v.v… Dưới góc nhìn tâm ý, BTTC là những động tác tự ý đó là những động tác đượcđiều khiển bằng trí tuệ và ý chí khác với động tác “ vô ý thức ”, tức là những độngtác phản xạ không điều kiện kèm theo. Việc thực thi bài tập thể chất khi nào cũng nhằm mục đích đạt được hiệu suất cao cụ thểnói cách khác mỗi bài tập thể chất đều có mục tiêu tự giác. Để đạt được mụcđích con người phải tư duy tích cực, xác lập phương hướng hành vi đánggiá điều kiện kèm theo hành vi và tinh chỉnh và điều khiển động tác nỗ lực ý chí. Như vậy về mặttâm lý nội dung của bài tập thể chất là quy trình nhận thức xúc cảm và ý chí. Xét về mặt sinh lý học, BTTC là sự chuyển khung hình sang một mức hoạt độngchức năng cao hơn so với trạng thái không hoạt động giải trí. Những đổi khác sinh lýtrong hoạt động sẽ kích thích quy trình hồi sinh và thích nghi sau đó. VD : Thông khí phổi tăng hơn 30 lần, hấp thụ ôxy tăng 20 lần, lưu lượngphút của máu tăng đến 10 lần hoặc hơn, tương ứng với quy trình đó những quátrình đồng hoá và dị hoá cũng tăng lên. Nhờ đó BTTC trở thành một nhân tốmạnh mẽ làm tăng cường năng lực chức phận và triển khai xong cấu trúc khung hình. Khi xem xét nội dung BTTC theo quan điểm sư phạm thì điều quan trọngkhông hẳn chỉ là những biến hóa sinh lý, sinh hoá diễn ra trong khung hình, mà chủyếu là những năng lực do bài tập tạo ra để tăng trưởng hài hòa và hợp lý năng lượng conngười, cùng với việc hình thành kỹ xảo nhất định. Về mặt sư phạm tác độngcủa bài tập thể chất không riêng gì hạn chế về mặt trong phạm vi sinh học mà còntác động đến tâm ý, ý thức hành vi con người. – Hình thức của bài tập thể chất : Hình thức của bài tập nhờ vào vào đặc thù nội dung của nó trong triếthọc hình thức được hiểu là phương pháp sống sót của nội dung, là cấu trúc của nộidung vì vậy hình thức BTTC là cấu trúc bên trong và bên ngoài của nó. – Cấu trúc bên trong của bài tập thể chất. 17L à mỗi liên hệ qua lại tương hỗ phối hợp và ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa quátrình sinh lý diễn ra trong khung hình khi tập luyện. VD : Các quy trình phối hợp thần kinh cơ, sự phối hợp qua lại giữa chứcnăng hoạt động và thực vật, đối sánh tương quan giữa năng lực yếm khí và ái khí trongchạy sẽ khác trong đẩy tạ. – Cấu trúc bên ngoài của bài tập thể chất : Biểu hiện mỗi quan hệ khoảng trống, thời hạn và dùng sức tức là hình dángđộng tác hoàn toàn có thể nhìn thấy được. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của bài tập thể chất. hình thức và nội dung của bài tập thể chất có mỗi liên hệ hữu cơ với nhau. Trong đó nội dung là mặt quyết định hành động, nội dung đi trước và để đạt được mụcđích trong một bài tập nào đó thì phải biến hóa nội dung, sau đó hình thức mớithay đổi sau cho tương thích. Mặt khác hình thức cũng ảnh hưởng tác động tới nội dung, hình thức bài tập không tương thích sẽ cản trở việc thực thi nội dung. VD : Người có kỹ thuật chạy sẽ đạt tác dụng cao hơn người không có kỹthuật. Vì vậy hình thức tương thích sẽ tạo điều kiện kèm theo triển khai nội dung. Trong thực tiễn có những bài tập có nội dung khác nhau nhưng lại có hìnhthức tựa như nhau ( như chạy và đi bộ ). Đồng thời có những bài tập có nộidung giống nhau nhưng hình thức lại khác ( nhau như chạy bơi cùng một cườngđộ sinh lý ). I. 2. CÁC NHÂN TỐ XÁC ĐỊNH SỰ TÁC ĐỘNG HỢP LÝ CỦA BÀI TẬP THỂCHẤT.Tuỳ theo nội dung và hình thức mà mỗi bài tập thể chất đều gây tác độngnhất định đến khung hình con người. Vì khung hình con người là khối thống nhất hoàn hảo, bất kỳ một ảnh hưởng tác động nàocũng gây nên sự biến hóa trong khung hình cho nên vì thế trong quy trình tập luyện nếukhông dựa trên những quy luật GDTC thì sẽ mang lại mối đe dọa so với khung hình. Cho nên trong quy trình tập luyện TDTT để đạt được hiệu suất cao tốt nhất, ngoài18việc lựa chọ được những phương tiện đi lại và giải pháp tập luyện hài hòa và hợp lý thì ngườitập cần phải chú ý quan tâm đến những nhân sau đây. – Bản thân bài tập. Các bài tập khác nhau về cấu trúc, lượng hoạt động, về độ phức tạp và độmới lạ sẽ gây ra những phản ứng khác nhau trong khung hình người tập. VD : Bài tập bơi khác bài tập đi bộ, những bài tập khác nhau dẫn đến phảnứng khung hình cũng khác nhau. – Đặc điểm cá thể người tập. Lứa tuổi, giới tính, trạng thái sức khoẻ, trình độ tập luyện … Cùng một bài tập, đối tượng người tiêu dùng khác nhau dẫn đến phản ứng khung hình cũng khácnhau hoặc cùng một lượng hoạt động trạng thái sức khoẻ khác nhau cũng khácnhau. – Điều kiện bên ngoàiNhư thời tiết, khu vực, điều kiện kèm theo vệ sinh phòng tập, chất lượng dụng cụ tậpluyện-Phương pháp tập luyện. Tập giải pháp khác nhau dẫn đến phản ứng khung hình cũng khác nhau. Vídụ chiêu thức đồng đều khác chiêu thức tái diễn với quãng nghỉ ngắn. Như vậy, để có được hiệu suất cao định trước của việc sử dụng bài tập, ngườitập phải vấn đáp được câu hỏi : Ai tập ? tập cái gì ? tập ở đâu ? tập như thế nào ? I. 3. Ý NGHĨA PHƯƠNG TIỆN CỦA CÁC NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊNVÀ CÁC NHÂN TỐ VỆ SINH.I. 3.1. Các tác nhân của thiên nhiên và môi trường tự nhiênCác tác nhân của môi trường tự nhiên tự nhiên như ánh sáng mặt trời, không khí vànước, cũng là những phương tiện đi lại không kém phần quan trọng để củng cố sứckhoẻ, tôi luyện khung hình và nâng cao năng lực hoạt động giải trí thể lực của con người, trong quy trình giáo dục sức khỏe thể chất những tác nhân của thiên nhiên và môi trường tự nhiên được sửdụng theo hai hướng. 19 – Bổ sung tăng cường và hợp lý hoá ảnh hưởng tác động của bài tập thể chất như luyệntập trong điều kiện kèm theo giàu ôxy bãi biển, tập dưới ánh nắng, tập trong điều kiệnthời tiết đồi núi. – Sử dụng như một phương tiện đi lại độc lập để tôi luyên khung hình, củng cố sứckhoẻ ( tôi luyện là dùng những thủ pháp để nâng cao năng lực thích nghi của cơthể ). Một trong những hiệu quả cơ bản của việc sử dụng hài hòa và hợp lý những tác nhân môitrường tự nhiên trong quy trình giáo dục sức khỏe thể chất là tôi luyện khung hình tức là nângcao tính không thay đổi của khung hình trước những đổi khác bất ngờ đột ngột của thời tiết. Tôiluyện khung hình trong khoanh vùng phạm vi năng lực thích nghi được cho phép sẽ có tính năng củngcố sức khoẻ và tăng cường năng lực hoạt động giải trí của thể lực của con người. Đểtôi luyện cần tôi luyện từ lứa tuổi nhỏ. Cơ thể cần sử dụng những phương tiện đi lại cótác động trái ngược nhau so với khung hình như hoàn toàn có thể dùng nước nóng lạnh. I. 3.2. Các tác nhân vệ sinhCũng có ý nghĩa như một tác nhân bổ trợ của GDTC việc tuân thủ những quytắc vệ sinh trong quy trình giáo dục sức khỏe thể chất ở mức đáng kể quyết định hành động hiệu quảcủa bài tập thể chất. Điều quan trọng ở đây là phải bảo vệ những nhu yếu vệsinh của chế độ lượng hoạt động và quãng nghỉ. Vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinhmôi trường tập luyện, dụng cụ, phục trang cũng như điều kiện kèm theo thôi thúc quátrình phục sinh sau buổi tập, phòng bệnh và củng cố sức khoẻ. Mặc dù môitrường tự nhiên và những điều kiện kèm theo vệ sinh không phải là phương tiện đi lại chính củagiáo dục sức khỏe thể chất nhưng nó là những tác nhân bổ trợ để làm tăng hiệu suất cao của quátrình tập luyện và tranh tài. II. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤTII. 1. CƠ SỞ CẤU TRÚC CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤTII. 1.1. Lượng hoạt động và quãng nghỉ là yếu tố thành phần cơ bản củaphương pháp giáo dục sức khỏe thể chất. Một trong những cơ sở quan trọng nhất của toàn bộ những chiêu thức giáodục sức khỏe thể chất là giải pháp kiểm soát và điều chỉnh lượng hoạt động và trật tự kết hợplượng hoạt động với nghỉ ngơi. 20II. 1.1.1. Khái niệm lượng hoạt động : Lượng hoạt động trong những bài tập thể lực là mức độ tác động ảnh hưởng của chúng tớicơ thể người tập. Nói cách khác thuật ngữ lượng hoạt động được dùng để chỉ sựđịnh lượng tác động ảnh hưởng của những bài tập thể lực. Lượng hoạt động dẫn đến nhữngdiễn biến tính năng trong khung hình như những trạng thái trước hoạt động, mở màn vậnđộng, không thay đổi, căng thẳng mệt mỏi. Sự tiêu tốn nguồn năng lượng trong hoạt động cũng như mệtmỏi nói chung chính là nguyên nhân tạo nên sự triển khai xong khung hình bằng vậnđộng. Mệt mỏi sau hoạt động không mất đi trọn vẹn mà để lại những “ dấuvết ”. Quá trình tích luỹ những “ dấu vết ”, những biến hóa thích nghi đó sẽ làmphát triển trình độ tập luyện. Như vậy, lượng hoạt động dẫn tới căng thẳng mệt mỏi và tiếpđó là phục sinh thích nghi. Hiệu quả của lượng hoạt động tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ của nónếu coi bài tập là một tác nhân ảnh hưởng tác động thì khái niệm khối lượng hoạt động là độdài thời hạn tác động ảnh hưởng là tổng số lần hoạt động thể lực đã được triển khai vànhiều thông số kỹ thuật khác. Cường độ hoạt động là sự tác động ảnh hưởng vào khung hình của bài tậpvào mỗi thời gian đơn cử, là mức stress công dụng, là trị số một lần gắngsức … Lượng hoạt động chung của một số ít bài tập hay của cả buổi tập nói chungđược xác lập trải qua cường độ và khối lượng trong mỗi bài tập. Trong thực tiễn, người ta thường nhìn nhận tổng khối lượng hoạt động theo cácthông số riêng không liên quan gì đến nhau bên ngoài tuỳ theo đặc thù bài tập. Ví dụ, khối lượng là tổngsố công và VĐV sinh ra trong suốt buổi tập, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, tổng số dộdài, tổng số thời hạn, số lần lặp lại vv .. Cường độ : Được nhìn nhận bằng mức độ stress về mặt sinh lý sinh hoáthực tế người ta tình bằng vận tốc trung bình. Ví dụ, tỉ lệ giữa kilômét chạy vớitốc độ thiết yếu trên tổng số kilômét đã vượt qua trong buổi tập. Các chỉ số tối đa của khối lượng và cường độ có tương quan tỷ suất nghịch vớinhau lượng hoạt động có cường độ tối đa chỉ hoàn toàn có thể lê dài một số ít dây hoặc íthơn, ngược lại lượng hoạt động có khối lượng tối đa chỉ hoàn toàn có thể triển khai vớicường độ thấp. Vì cường độ bài tập càng cao thì khối lượng càng nhỏ và ngược21lại. Trong những bài tập có cường độ trung bình thì khối lượng hoạt động có thểđạt tới những trị số lớn. Người ta phân biệt lượng hoạt động bên trong và lượng hoạt động bên ngoài – Lượng hoạt động bên trong : Là mức độ đổi khác sinh lý sinh hoá trong cơthể khi thực hện bài tập. Trong điều kiện kèm theo nhất định thì lượng hoạt động bênngoài và lượng hoạt động bên trong tương ứng với nhau. Cường độ và khốilượng hoạt động càng lớn thì mức độ biến hóa sinh lý, sinh hoá trong cơ thểcàng mạnh và ngược lại. Khi khung hình ở những trạng thái khác nhau thì quan hệgiữa lượng hoạt động bên trong và lượng hoạt động bên ngoài cũng đổi khác. VD : Khi sử dụng một lượng hoạt động bên ngoài có mạng lưới hệ thống trong cơ thểđã diễn ra những đổi khác thích nghi khi có lượng hoạt động không còn gây nênnhững phản ứng can đảm và mạnh mẽ như trước nữa. Hoặc khung hình ở những trạng thái khácnhau thì cùng một lượng hoạt động sẽ dẫn đến những phản ứng vấn đáp khácnhau. – Lượng hoạt động bên ngoài : Có thể xác lập bằng những thông số kỹ thuật vậnđộng theo những thông số đo lường và thống kê như thời hạn, độ dài, khối lượng những vật. Lượngvận động bên ngoài dễ xác lập nhưng chỉ một cách tương đốiVD : Quan sát bằng cảm xúc chủ quan mệt hay không mệt, sắc thái, màu dahay bắt mạch. Lượng hoạt động bên trong phải trải qua những giải pháp kiểm tra y học. VD : Xác định sự tiêu tốn nguồn năng lượng, nghiên cứu và phân tích máu v.v… Lập kế hoạch và kiểm soát và điều chỉnh lượng hoạt động là nội dung cơ bản trong xâydựng chiêu thức giáo dục sức khỏe thể chất, tuy nhiên nếu chỉ dừng ở đó thì chưa đủ, hiệuquả tập luyện còn phụ thuộc vào vào trật tự tích hợp một cách koa học giữa lượngvận động và nghỉ ngơi tích cực có tính năng thôi thúc nhanh quy trình hồi phụcsau hoạt động, thường thì người ta tích hợp hai hình thức nghỉ ngơi với nhau. Ví dụ, giữa những lần tập nghỉ ngơi thụ động, giữa những loạt tập nghỉ tích cực. Thời gian quãng nghỉ trong những giải pháp khác nhau được xác lập tuỳtheo mục tiêu của buổi tập và những quy luật của quy trình hồi sinh. 22II. 1.1.2. Các quãng nghỉ trong chiêu thức giáo dục thể chấtCăn cứ vào mức độ phục sinh sau hoạt động mà người ta phân biệt 3 quãngnghỉ : Quãng nghỉ khá đầy đủ, quãng nghỉ ngắn, quãng nghỉ vượt mức. – Quãng nghỉ vừa đủ : Là quãng nghỉ bảo vệ, cho lượng hoạt động tiếptheo được thực thi vào thời gian năng lực hoạt động thể lực đã phục sinh tớimức bắt đầu, nhờ vậy khi lặp lại những tính năng không bị stress. – Quãng nghỉ vượt mức : Là quãng nghỉ bảo vệ cho lượng hoạt động lặp lạiđược thực thi vào thời gian diễn ra pha phục sinh vượt mức. Tức là dường nhưxẩy ra trên nền nâng cao năng lượng hoạt động giải trí, trên nền hiệu suất cao lưu lại từ buổitập trước. – Quãng nghỉ ngắn : Là quãng nghỉ mà trong đó lượng hoạt động được lặp lạivào thời gian những tính năng riêng không liên quan gì đến nhau hoặc hàng loạt khung hình chưa kịp phục sinh đầyđủ. Với quãng nghỉ này lượng hoạt động bên trong ngày càng tăng lên. II. 2. Cấu trúc buổi tập TDTTDựa trên quy luật diễn biến năng lực hoạt động giải trí thể lực trong khoanh vùng phạm vi buổitập và đặc biệt quan trọng tổ chức triển khai hoạt động giải trí người tập, người ta chia buổi tập thành 3 phần : Chuẩn bị, cơ bản, kết thúc – Phần sẵn sàng chuẩn bị : Việc tổ chức triển khai cho một buổi tập cần phải sẵn sàng chuẩn bị về dụng cụ sân bãi đầy đủsạch sẽ cho buổi tập. Phần này khung hình chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động gồm gồmkhởi động chung và khởi động trình độ để sẵn sàng chuẩn bị cho những nhóm cơchính chịu lượng hoạt động của giờ học. Cấu trúc của phần chuẩn bị sẵn sàng phải phùhợp với phần cơ bản phần này chiếm từ 10 – 15 % thời hạn của buổi tập. – Phần cơ bản : Phần cơ bản được dành để xử lý những trách nhiệm phức tạp nhất của buổitập. Tuỳ thuộc nội dung đơn cử, phần cơ bản hoàn toàn có thể chia thành nhiều phần nhỏ. Đây là phần hầu hết của buổi tập được triển khai khi năng lượng hoạt độngđạt giá trị cao nhất. Phần này gải quyết những trách nhiệm khó khăn vất vả khác nhau23của buổi tập như thực thi những động tác mới, động tác phức tạp được bố tríngay vào đầu của phần cơ bản. Khi tập những động tác mới người tập cần nắmvững quy luật hình thành và tiếp thu động tác. Giáo dục đào tạo những năng lực thể lực cầntiến hành giáo dục sức nhanh, sức mạnh, sức bền hoặc sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Trong những buổi tập thể thao, quy trình tiến độ năng lực hoạt động giải trí thể lực tốiưu được dành cho tăng trưởng sức mạnh và sức mạnh vận tốc. Thông thường phầnnày chiếm 70 – 80 % thời hạn buổi tập. – Phần kết thúc : Được thực thi vào lúc năng lượng hoạt động giải trí đã giảm xuống từ từ. Tổchức thu gọn dụng cụ tập luyện. Để thôi thúc nhanh quy trình hồi sinh trongphần kết thúc người ta sử dụng những bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, những động tácđơn giản, những động tác vũ đạo, nghỉ ngơi tích cực để đưa khung hình về trạng tháibình thường. Phần này thời hạn chiếm 5 – 10 %. Bài 324C ÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁPTẬP LUYỆN TDTTA. MỤC TIÊU – Kể tên được những nguyên tắc – Phân tích đặc thù những nguyên tắcB. NỘI DUNGNhững nguyên tắc chung nhất để xác lập hàng loạt phương hướng và tổ chứchoạt động trong giáo dục sức khỏe thể chất là ba nguyên tắc chung. Ngoài ra còn cónhững nguyên tắc về chiêu thức giáo dục sức khỏe thể chất. Đó là những nguyên tắc, cơ sở khoa học – thực tiễn, dùng để xác lập những nhu yếu cơ bản về cấu trúc, nội dung, giải pháp tổ chức triển khai quy trình giáo dục sức khỏe thể chất nhằm mục đích đạt được hiệuquả mong ước. Các nguyên tắc nghiên cứu và điều tra dưới đây một mặt phản ánh quyluật của quy trình sư phạm mặt khác phản ánh quy luật đặc trưng của giáo dục thểchất. Hệ thống nguyên tắc gồm có năm nguyên tắc. III. 1. NGUYÊN TẮC TỰ GIÁC TÍCH CỰC : Nguyên tắc tự giác tích cực phản ánh quy luật tâm ý hoạt động giải trí. Hiệu quảcủa quy trình tập luyện TDTT phụ thuộc vào rất nhiều vào niềm tin thái độ bảnthân người tập việc hiểu được thực chất những trách nhiệm cũng như tích cực thựchiện chúng sẽ rút ngắn thời thực thi bài tập, tạo điều kiện kèm theo sử dụng sáng tạokiến thức, kỹ năng và kiến thức, kỹ xảo vào đời sống. Nội dung của nguyên tắc biểu lộ ởyêu cầu sau. Xây dựng thái độ tự giác và hứng thú so với mục tiêu chung và nhiệm vụcụ thể của từng buổi tập. Tiền đề thiết yếu của thái độ này là động cơ tham gia hoạt động giải trí đó. Các nhàtâm lý học Mác Xít cho rằng con người hoạt động giải trí là do động cơ tâm ý thúcđẩy. Động cơ hoạt động giải trí chi phối thôi thúc con người hoạt động giải trí suy cho cùng lànhu cầu Mác nói : “ Trước nhất con người phải có ăn ở mặc. Không có nhu cầusống thì không lao động, nhu yếu thấp thì trình độ thấp ”. 25
Source: https://gauday.com
Category: Blog
Globe (GDT) là gì? Thông tin chi tiết về dự án Globe và GDT coin
Gdtt là gì
Gấu Đây