Tại Sao Thiền Sư Thích Nhất Hạnh Bị Cấm Về Việt Nam, Vụ Mâu Thuẫn Ở Tu Viện Bát Nhã

*

Ở Huế, Nhất Hạnh lớn lên trong một gia đình có cha làm việc cho chính quyền của vua Bảo Đại. Ông nói rằng từ nhỏ ông đã thấy hạt giống của Phật tổ nảy sinh trong ông.Trả lời phóng vên Don Lattinvề thời thơ ấu, ông nói, những ngày đi học ở trường làng, ông cùng bạn bè đi xin từng nhà mỗi chén gạo để cứu đói cho dân chúng, nhưng họ cũng phải sớm quyết định rằng ai được ăn và ai không vì không đủ gạo. Năm 1942, Thiền sư Nhất Hạnh khi đó 16 tuổi xuất gia tại chùa Từ Hiếu, Huế.

Bạn đang xem: Tại sao thiền sư thích nhất hạnh bị cấm về việt nam

Cũng trong năm đó, một người thiếu niên 15 tuổi ở Thái Bình ra tỉnh Hà Đông (Hà Nội ngày nay) để xuất gia tại chùa Thanh Lam, lấy pháp danh là Quảng Độ. Ông kể rằng, chỉ ba năm sau khi xuất gia, ông chứng kiến thầy của mình bị nghi là Việt gian rồi bị Việt Minh trói như một tên tội phạm để mang ra sân đình, tại đó thầy ông bị đấu tố rồi xử tử bằng ba phát đạn. Lúc đó, người thanh niên 18 tuổi thề rằng sẽ lấy lòng từ bi, khoan dung và bất bạo động của Phật giáo để chống sự cuồng tín, bất dung.

Chung một chí hướng

Sau thảm kịch chùa Thanh Lam, Thích Quảng Độ đi học ở Hà Nội. Lúc này, hai người Trí Quang và Nhất Hạnh có lẽ đã gặp nhau tại Huế.

Khi đó, Phật học viện Báo Quốc ở Huế mới vừa thành lập vào năm 1947. Một năm sau, Trí Quang vào dạy học ở đây, và Nhất Hạnh lúc đó đã là học tăng của học viện.

Năm 1950, Trí Quang vào Sài Gòn lần đầu tiên, Nhất Hạnh cũng vào cùng năm với ông. Tại Sài Gòn, Trí Quang cùng các nhà sư khác đã hợp nhất ba phật học viện thành một rồi đặt tại chùa Ấn Quang, Nhất Hạnh cũng bắt đầu dạy học ở đây.

Cả hai người, Nhất Hạnh và Trí Quang, đều có chung một tham vọng là làm sao để Phật giáo thống nhất, phát triển đạo Phật trở thành quốc giáo <1>. Hai người đã bắt làm báo với cái tham vọng đó.

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, đất nước tạm thời chia đôi, Trí Quang làm chủ bút của tờViên Âm. Một năm sau, Nhất Hạnh được giao làm chủ bút tờPhật giáo Việt Namnhưng phải đình bản sau hai năm hoạt động vì lên tiếng mạnh mẽ cho sự thống nhất Phật giáo.

Khi ấy, cả hai người đều chịu sự đau khổ giày vò. Nhất Hạnh bị “tước bỏ khí giới” tranh đấu của mình, rồi về tạm lánh cùng bè bạn ở một nơi quạnh quẽ tại Lâm Đồng. Trí Quang bị ám ảnh cảnh mẹ ông bị đấu tố vào năm 1956, ông lang thang vào Nha Trang rồi trở về Huế năm 1960. Tuy vậy, Trí Quang không sao quên được bi kịch của mẹ, lại thêm cảnh Phật giáo bị chèn ép, làm ông càng bức bối.

Năm 1958, Quảng Độ đã trở về Sài Gòn sau khi du học ở Sri Lanka và Ấn Độ. Dưới chế độ kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, căng thẳng giữa Quốc gia và Cộng sản, hai người Nhất Hạnh và Quảng Độ đều còn trẻ nên chưa làm được gì to tát. Nhưng có lẽ cả ba đều cảm nhận được một con sóng lớn đang đến với Phật giáo miền Nam.

Trong cuốn Nẻo về của ý của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vào năm 1961, khi nơi trú ngụ của ông và bạn bè bị bố ráp, ông phải về Sài Gòn để tạm lánh cho an toàn rồi, trong thời cuộc khó khăn như vậy, ông sang Mỹ để nghiên cứu về Phật giáo tại Đại học Princeton rồi giảng dạy tại Đại học Columbia.

*Những ngày tranh đấu

Tờ mờ sáng hôm sau, khi Thượng tọa Trí Quang còn đang nằm nghỉ thì ngoài đường phố tiếng thanh niên cầm theo cờ Phật giáo đã xôn xao ngoài phố. Cũng trong hôm ấy, Phật giáo Sài Gòn quyết định thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo (gọi tắt là Liên phái) xác định tranh đấu lâu dài. Thượng tọa Trí Quang nằm trong Ban cố vấn, và Đại đức Quảng Độ làm phụ tá cho uỷ viên ngoại giao của Liên phái.

Mục tiêu của Liên phái muốn chính phủ đáp ứng năm nguyện vọng: thu hồi công điện triệt hạ cờ Phật giáo, đạo Phật phải được đối xử bình đẳng với đạo Thiên Chúa, chấm dứt đàn áp tín đồ Phật giáo, tăng ni phải được tự do truyền đạo và người chết phải được bồi thường cũng như kẻ chủ mưu phải đền tội.

Hai ngày đầu sau sự kiện ở Đài phát thanh Huế, phật tử còn biểu tình tự phát nhưng những ngày sau đó thì được tổ chức trật tự hơn theo ý của Thượng tọa Trí Quang, truyện này được ông ghi lại trong tiểu truyện tự ghi của mình. Ông cũng bày ra cách cho phật tử đến chùa Từ Đàm tụng kinh hàng tuần cho những phật tử đã chết. Ở Sài Gòn, các nhà sư tổ chức các đám rước linh từ chùa này sang chùa kia, tổ chức những cuộc biểu tình, tuyệt thực.

Năm ngày sau khi Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu, Liên phái ký với chính phủ một thông cáo chung nhằm đáp ứng năm nguyện vọng của Phật giáo. Tuy nhiên, thông cáo này không được chính phủ thực hiện, làm quần chúng, tăng ni giận dữ.

Xem thêm: Danh Sách Mùa Bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2018, Mùa Bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2018

Theo Thích Nhất Hạnh, khi ấy, ông đang ở Mỹ cũng bắt đầu vận động cho quyền tự do tôn giáo và bài chiến tranh ở quê nhà. Ông xuất hiện trên truyền hình, gặp ký giả, dịch các tài liệu về vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vận động các tổ chức quốc tế và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào tình hình đang căng thẳng ở miền Nam.

*

Vào tháng 12/1963, khi cuộc tranh đấu đã thành công, Thượng tọa Trí Quang cùng các nhà sư khác thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đại đức Quảng Độ sang nước ngoài chữa bệnh, Đại đức Nhất Hạnh trở về Sài Gòn.

Trong khi Thượng tọa Trí Quang huy động phật tử, tăng ni tiếp tục tranh đấu chính trị thì Đại đức Nhất Hạnh đã tham gia thành lập các cơ sở như mong ước của ông như Nhà xuất bản Lá Bối, Viện Đại học Vạn Hạnh, Trường thanh niên Phụng sự Xã hội, và Dòng tu Tiếp hiện (một dòng tu thể hiện sự dấn thân của Phật giáo vào đời sống).

*

Đến tháng 5/1966, Thích Nhất Hạnh lên đường sang Mỹ để vận động ngừng chiến tranh ở Việt Nam. Sau ba tháng, chính phủ miền Nam không cho ông trở về nước. Lúc này, ông bắt đầu nổi tiếng trên thế giới như một nhà sư đại diện cho hòa bình của Việt Nam. Một năm sau, ông được Mục sư Martin Luther King đề cử Giải Nobel Hòa Bình.

Thích Nhất Hạnh lên đường sang Mỹ để vận động ngừng chiến ở Việt Nam. Chuyển đi của ông dự định trong ba tháng nhưng sau đó chính phủ Việt Nam Cộng hòa không cho ông trở về. Ảnh: PVCEB.Đường chia ba ngã

Thích Nhất Hạnh lên đường sang Mỹ để vận động ngừng chiến ở Việt Nam. Chuyển đi của ông dự định trong ba tháng nhưng sau đó chính phủ Việt Nam Cộng hòa không cho ông trở về. Ảnh: PVCEB.

Đầu năm 2005, trong sự chào đón nồng nhiệt và tự hào của quần chúng, Thiền sư Nhất Hạnh về nước sau gần 40 năm xa quê hương với tăng đoàn khoảng 200 người của mình. Ông xuất hiện trong những buổi nói chuyện mà khán giả là đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế và Hà Nội.

Cũng vào lúc đó, Hòa thượng Quảng Độ sống một mình trong một căn phòng bị khóa tại Thiền viện Thanh Minh tại thành phố Hồ Chí Minh. Ở bên kia đường, công an có mặt ngày đêm chỉ để canh giữ ông.

Trong lần về nước sau 40 năm của mình, Thiền sư Nhất Hạnh đến thăm Hòa thượng Trí Quang nhưng không thăm được Hòa Thượng Quảng Độ.

Trong mắt báo chí Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh là một “khúc ruột ngàn dặm” đầy tự hào nay đã trở về quê hương để góp thêm sinh khí cho dân tộc. Còn Hòa thượng Quảng Độ như một thứ ung nhọt mà chính quyền đã tìm mọi cách cô lập. Nhưng trước kia, họ đều là những nhà sư như nhau cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ.

Sau năm 1975, trong khi Thiền sư Nhất Hạnh gây dựng tăng đoàn Làng Mai của mình ở nước Pháp, Hòa thượng Trí Quangbị giam một năm rưỡi trong một cái hố như một cỗ quan tài, mỗi ngày ông được ra ngoài 15 phút để tắm rửa. Từ đó, người ta không thấy ông hô hào cho những cuộc biểu tình, những nguyện vọng của Phật giáo, báo chí quốc tế không thể tiếp cận trực tiếp ông cho đến ngày ông mất.

Sau chiến tranh, Hòa thượng Quảng Độ cùng một vài nhà sư khác tranh đấu cho những nhà sư tự thiêu vì tôn giáo và chống lại ý đồ xóa bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của chế độ mới. Ông và các nhà sư khác đã chiến đấu ở một nơi không có báo chí quốc tế, không có tòa án độc lập, không có tự do hiệp hội, ngày cũng như đêm, xác người vì tự thiêu có thể đã nhiều hơn trong chế độ cũ. Ông chưa bao giờ thỏa hiệp với chính quyền về cuộc tranh đấu của mình cho đến lúc ông qua đời.

Xưa có ba nhà sư: Nhất Hạnh, Trí Quang và Quảng Độ. Khi những người cộng sản đến, cuộc đời họ đã rẽ ra ba hướng.

Trích dẫn:<1> Xem các số của Tạp chí Phật giáo từ số 2 đến số 28, và cuốn Nẻo về của ý (Thiền sư Thích Nhất Hạnh).