TỔNG QUAN KHÁI NIỆM LIÊN QUAN VỀ NGHỀ LUẬT SƯ TRONG ĐẠO ĐỨC LUẬT SƯ TRONG THỜI KỲ MỚI

1.Nghề luật sư

     

                                                                                          

1.1. Khái niệm

Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội không phải đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong suốt một thời gian dài cho đến trước thời điểm ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001. Thực tế này có căn nguyên về mặt lịch sử và từ quan niệm chung của xã hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử dài lâu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa học, khái niệm nghề luật nói chung và nghề luật sư nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm khoa học pháp lý, trong các văn bản pháp quy và đời sống xã hội. Thực tế, khi đánh giá cả một quá trình lịch sử, thời gian gần đây có ý kiến nhận định ở Việt Nam, nghề luật cũng được coi trọng, nhất là từ sau năm 1945 và hệ thống văn bản về nghề và hành nghề luật đã tương đối hoàn chỉnh. Ý kiến này tuy có cơ sở lịch sử của nó, nhưng chưa phản ánh được bản chất và nội hàm hoàn chỉnh của khái niệm nghề luật sư. Chỉ vào cuối năm 2001, khi ban hành Pháp lệnh luật sư mới, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp mới mở khóa đầu tiên chính thức đào tạo luật sư. Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt nó trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị, chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội. Có ý kiến quan niệm việc hành xử chức năng luật sư như là một thiên chức (mission) hơn là một nghề nghiệp (profession) để mưu sống. Trên một bình diện khác, có tác giả cho rằng chưa có sự chính xác về mặt ngôn ngữ khi sử dụng cụm từ “nghề luật sư” hay “nghề nghiệp luật sư” và “hành nghề luật sư”, vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một nghề (trong tiếng Anh người ta dùng “lawyer” để chỉ luật sư và “practice law” để chỉ hành nghề luật). Tuy nhiên, việc sử dụng cụm từ nói trên là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với Pháp lệnh luật sư. Hoạt động luật sư trong cơ chế thị trường được coi là một loại hình dịch vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các đạo luật về hành nghề luật sư và các luật lệ về kinh doanh. Tuy nhiên, giữa các nước theo hệ thống tập quán pháp và các nước theo hệ thống luật thành văn có những điểm khác nhau trong quan niệm về nghề luật sư. Các nước theo tập quán pháp coi nghề luật sư là một nghề kinh doanh, nhưng thuộc loại hình kinh doanh đặc biệt; còn các nước theo hệ thống luật thành văn nhìn chung coi hoạt động luật sư là một trong những nghề tự do (luật sư, công chứng, kiểm toán, bác sỹ, kiến trúc sư…). Ngày nay, theo một quan điểm được đa số các nhà nghiên cứu pháp luật ủng hộ, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là một nghề cao quý trong xã hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phấn đấu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

Tuy nhiên, xác định hoạt động luật sư như là một nghề cao quý không thể thiếu trong xã hội và cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp này như thế nào vẫn đang là những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý cần nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra các giải pháp cho sự hoàn thiện và phát triển của nghề luật sư. Trước hết, hiện nay trong một số văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoạt động luật sư được coi là hoạt động “bổ trợ tư pháp” . Quan niệm này xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của luật sư thường gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án. Vì thế, tổ chức nghề nghiệp của luật sư (Đoàn, Hội luật sư) thường được thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của một Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa phương/ Đoàn luật sư địa phương/ luật sư địa phương. Cũng vì lý do đó mà nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã coi luật sư là một hoạt động “bổ trợ tư pháp”5. Trong hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng, luật sư được xác định là “người tham gia tố tụng”, có địa vị pháp lý hoàn toàn khác so với những người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, xét về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng công tố như là một tất yếu khách quan tự thân của tranh tụng hình sự. Xét ở một bình diện khác, một quan điểm rất đáng chú ý là trong luật tố tụng hình sự thực định hiện hành, chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa.

Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm nghề luật sư bao gồm hai cụm từ: Nghề với tính chất là một nghề nghiệp và luật sư chỉ những người đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội” hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là “thành thạo trong một công việc nào đó”. Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn nghề tự do có nghĩa là “nghề tự mình làm để sinh sống, không thuộc tổ chức, cơ quan nào7. Nếu theo giải thích của Từ điển tiếng Việt nêu trên, cách hiểu nghề luật sư như một nghề tự do lại không hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và cùng với việc được cấp chứng chỉ hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa phương mình cư ngụ. nước, luật sư được coi là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ Mặt khác, khái niệm “nghề tự do” nói trên mới đặt nặng khía cạnh “kiếm sống” mà không bao hàm được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự phát triển của xã hội. Trong luật thực định của một số quan niệm tính chất của nghề nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản của một sự vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của Nhà nước nên không thể nói tính chất của nghề nghiệp này là nghề tự do. Tính chất độc lập cần phải được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do là nói tới phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không gian hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn chế, bó buộc như một công chức Nhà nước.

Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên chúng tôi khái quát hóa và định nghĩa khái niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

1.2.Vai trò luật sư

Luật sư là một nghề dựa trên sự am hiểu pháp luật và áp dụng pháp luật. Nghề được hình thành và phát triển song song với hệ thống pháp luật. Quy phạm pháp luật được hình thành trước hết phải có sự xuất hiện của nhà lập pháp, người thảo ra các quy phạm đó. Và chính vì tính chuyên môn cao của pháp luật, nên khó có thể lập luận, chứng minh, đưa ra ý kiến để bảo vệ quyền lợi của mình trước tòa. Do vậy sự ra đời của luật sư đảm bảo cho việc bào chữa cho đương sự của mình. Dần dần chức năng của luật sư cũng thay đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của xã hội

Bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước tòa.

Mỗi quốc gia lại hình thành cho mình một hệ thống lập pháp riêng cùng với đó là đội ngũ luật sư được tổ chức đa dạng, thực hiện những chức năng khác nhau nhưng tựu chung lại có một điểm là nghề luật sư mang tính xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Mỗi người có hàng trăm mối quan hệ mà cuộc sống càng phức tạp sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột. Người luật sư là người am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật sẽ trợ giúp người dân về mặt pháp lý một cách hiệu quả nhất.

Tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân tổ chức.

Càng ngày sự xuất hiện của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội đòi hỏi liên quan mật thiết đến pháp luật. Do vậy, với tư cách là người thông thạo pháp lý, luật sư có vai trò tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp họ nhằm giải quyết tranh chấp, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, giảm bớt khó khăn trong hoạt động.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Là một luật sư đồng nghĩa với việc liên tục trau dồi kiến thức, kĩ năng để tăng cường và phát triển hệ thống pháp luật. Dù hệ thống pháp luật có tốt đến đâu thì vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót vì chung quy lại nó được xây dựng dựa trên bộ óc con người mà cuộc sống luôn luôn thay đổi nên một vài người không thể kiểm soát được. Vì vậy, đội ngũ luật sư còn có vai trò hay trách nhiệm trong việc hoàn g trong mọi hoàn cảnh nghề nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, phẩm giá cao quý của nghề luật sư. Nó chính là thước đo phẩm chất của một người luật sư chân chính. Người luật sư cần phải căn cứ vào những quy tắc chuẩn thiện hệ thống pháp luật.

Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền. trách nhiệm người luật sư càng trở nên lớn lao và

Đạo đức nghề luật sư

2.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp nói chung

Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Xét một cách đơn giản nhất có 2 phạm trù lớn liên quan đến nghề nghiệp. Đó là chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Chuyên môn là một khái niêm cơ bản nhất, mà qua đó con người dùng sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi ích của con người. Đây là điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội. Có thể thấy rằng, trình độ chuyên môn cao sẽ phản ánh chất lượng nghề nghiệp tốt. Việc một đất nước có hệ thống nghề nghiệp chuyên nghiệp chất lượng tốt sẽ góp phần xây dựng một xã hội vững mạnh. Tuy nhiên để cho một xã hội phát triển đảm bảo sự trong sạch, văn minh, tiến bộ, vì lợi ích của con người và cộng đồng thì nhân tố quan trọng hơn cả đó chính là đạo đức nghề nghiệp. Một người thực hiện làm nghề có chuyên môn giỏi nhưng không có đạo đức tốt thì chắc hẳn nghề đó cũng không thể phát triển bền vững được. Hơn thế, khi xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu vật chất cơ bản được thỏa mãn thì vấn đề con người càng được đề cao, mà đây cũng chính là một yêu cầu quan trọng được đặt ra cho đạo đức nghề nghiệp

Trước hết, chúng ta cần xác định thế nào là đạo đức nghề nghiệp? Hiểu một cách đơn giản nhất đạo đức nghề nghiệp là những chuẩn mực, giá trị tốt đẹp về cách hành xử của người đó với nghề nghiệp của mình. Bản thân đạo đức đã là sự phản ánh của các mối quan hệ xã hội, là phép tắc đỗi xử trong xã hội mà nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích cộng đồng, xã hội. Nó được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức luôn mang tính kế thừa nhất định nhưng càng về sau nó lại có những thay đổi căn bản để phù hợp với hoàn cảnh và nhân thức xã hội. Mà đạo đức nghề nghiệp lại là một phạm trù nhỏ của đạo đức nói chung nên nhất thiết nó mang những đặc trưng cơ bản của đạo đức.

Phải nói rằng, đạo đức có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện nghề.

Thứ nhất, nó như là nhân tố quyết định để xã hội công nhận và tôn trọng nghề nghiệp đó.

Thứ hai, đạo đức giúp cho nghề nghiệp phát triển theo hướng tốt đẹp, thanh sạch.

Thứ ba, đạo đức góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, đạo đức mới giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc…Đạo đức trở thành nền tảng cho một xã hội phát triển vững mạnh và ổn định.

2.2. Đạo đức nghề luật sư

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, có thể thấy tài và đức là hai nhân tố vô cùng quan trọng đối với một con người. Đặc biệt là đối với người làm nghề luật sư, nó còn đòi hỏi cao hơn thế. Nếu người bác sĩ chữa bệnh cứu sống cơ thể người thì luật sư được so sánh như một người chữa bệnh về tinh thần cho họ. Chính vì thế ngoài chuyên môn( tài) phải giỏi người luật sư nhất thiết cần có đạo đức tốt, trong sáng. Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy định của pháp luật. Ngoài nhưng quy định của pháp luật còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật. Những quy tắc này đôi khi còn đặt ra yêu cầu cao hơn so với yêu cầu của pháp luật. Những quy tắc đạo đức nghề nghiệp được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Tuy nhiên, cho dù quyền lợi của khách hàng có lớn đến đâu thì người luật sư cũng không được phép làm bất cứ điều gì trái pháp luật và lương tâm.

Một bộ quy tắc không chỉ điều chỉnh việc hành nghề mà còn điều chỉnh đến cuộc sống riêng của luật sư. Luật sư không thể trở thành một tên du côn ở ngoài đời rồi dùng chính kiến thức luật pháp của mình để biện hộ cho bản thân.

Đạo đức nghề luật sư là tổng hợp các nguyên tắc ứng xử mà luật sư phải tuân thủ khi hành nghề. Ngoài ra, nó là những quy chuẩn chung về đạo đức hành nghề của luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan nhà nước và trong lối sống. Đạo đức nghề luật sư phản ánh hai khía cạnh cơ bản đó là bảo vệ lợi ích khách hàng và bảo đảm công lý, tuân thủ pháp luật. Luật sư được thuê để hướng dẫn và bảo vệ công lý nhưng nó không hoàn toàn mang ý nghĩa kinh doanh thuần túy. Tư cách đạo đức của nghề luật sư đảm bảo cho việc hành nghề của họ an toàn, hữu hiệu và uy tín.

Trong quá trình hành nghề, luật sư gặp rất nhiều các tình huống mà pháp luật không quy định hoặc không thể quy định được, trong trường hợp này những quy phạm xã hội sẽ điều chỉnh tốt hơn các quy phạm xã hội. Và có những trường hợp pháp luật không cấm nhưng đạo đức nghề nghiệp lại không cho phép làm. Chính vì vậy việc hình thành quy tắc đạo đức cho người luật sư sẽ giúp họ sử xự đúng mực này để tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu xứng đáng với sự tin cậy của xã hôi.

Đạo đức được coi là nguyên tắc trong hoạt động của nghề luật sư được pháp luật ghi nhận tại điều 5 luật luật sư năm 2006. Căn cứ Pháp lệnh luật sư năm 2001; Căn cứ Nghị định số 94/2001/NĐ/CP ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết  thi hành Pháp lệnh luật sư; Căn cứ Nghị định số 38/CP ngày 4 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp; Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ quản lý luật sư, tư vấn pháp luật ngày 5/8/2002 Bộ Tư pháp đã ban hành bộ Quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư. Đây là văn bản chính thức quy định về những nguyên tắc trong hoạt động hành nghề của luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan nhà nước

2.3.Tiêu chí đánh giá cơ bản

Lẽ đương nhiên là một luật sư đòi hỏi phải triệt để tôn trọng và thực thi pháp luật. Nhưng cho dù hệ thống pháp luật hoàn thiện đến mấy nó cũng không thể điều chỉnh tuyệt đối hành vi ứng xử của người luật sư. Bởi luật sư với tư cách cá nhân tự chịu trách nhiệm về uy tín nghề nghiệp của mình. Chính vì thế mà việc hành nghề của các luật sư mang trong mình nhận thức, tư tưởng, tâm lý cá nhân việc đặt ra một tiêu chí đánh giá cơ bản một luật sư có đạo đức quả thực chỉ mang tính tương đối.

Trong bộ quy tắc mẫu về đạo đức nghề luật sư có nhắc đến một số tiêu chí chung như: sứ mệnh, kĩ năng, chuẩn mực ứng xử, thanh danh. Ngoài ra, còn vô vàn các tiêu chí đạo đức khác mà người luật sư cần phải đạt được đó là lương tâm nghề nghiệp, nhiệt huyết, uy tín, trách nhiệm…