TÌNH HUỐNG TRUYỆN 1 Khái niệm – Chuyên đề lý luận văn học – 123docz.net
1. Khái niệm
Để tiếp cận tình huống truyện, không thể không nhìn nhận trên những khía cạnh
căn bản sau đây:
– Về bản thể: tình huống truyện, xét đến cùng, là một sự kiện đặc biệt của đời
sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm theo lối lạ hoá.
Nói “lạ hoá” có nghĩa là :
+ Nhà văn đã làm sống dậy trong sự kiện ấy một tình thế bất thường của quan
hệ đời sống (quan hệ giữa các nhân vật tham gia vào sự kiện, hoặc giữa nhân vật
với ngoại giới).
+ Tại sự kiện ấy bản chất của nhân vật hiện hình sắc nét.
+ Tại sự kiện ấy ý tưởng của tác giả cũng bộc lộ trọn vẹn.
Từ đó có thể đúc kết : Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một
tình thế bất thường của quan hệ đời sống.
– Về hình tướng của nó, cần khu biệt với hai khái niệm giáp ranh : đỉnh
điểm và hoàn cảnh điển hình.
+ So với “đỉnh điểm”, tình huống truyện vừa có điểm tương đồng vừa có điểm dị
biệt. Đỉnh điểm là một khâu của hệ thống cốt truyện. Nó chỉ được coi là “đỉnh
điểm” trong quan hệ với các khâu còn lại như giới thiệu, thắt nút, phát triển và cởi
nút. Nó là cái “đỉnh chót” của hàng loạt sự kiện và biến cố dệt nên cốt truyện. Còn
“tình huống” lại là cái sự kiện bao trùm lên toàn bộ một tác phẩm truyện ngắn.
Trong tình huống dường như có đủ các khâu của cốt truyện nhưng dưới dạng đã
được nén lại.
+ So với “hoàn cảnh điển hình”, tình huống truyện vừa rộng hơn vừa hẹp hơn.
Rộng về diện hoạt động. Nếu “hoàn cảnh điển hình” là khái niệm chỉ nhất thiết tồn
tại trong một phạm trù văn học là “văn học hiện thực”, thì “tình huống truyện”, với
tư cách là hạt nhân của một thể loại, lại có mặt ở mọi phạm trù văn học. Còn hẹp
về qui mô. “Hoàn cảnh điển hình” thường được tạo dựng từ hàng loạt sự kiện với
một khung cảnh xã hội rộng dài, thì tình huống chỉ là một “khoảnh khắc”, một “lát
cắt”, thâu tóm vào khuôn khổ mộ sự kiện nhỏ và trọn vẹn nào thôi. Nếu nhìn từ
tương quan với hoàn cảnh cũng có thể định nghĩa : tình huống là sự cô đặc của
một hoàn cảnh điển hình nào đó.
– Về vai trò : Tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa là
nó quyết định đến sự sống còn của một truyện ngắn. Hãy nhìn vào hai dạng biến
động cơ bản về qui mô của truyện ngắn : a) dạng mở rộng : khi một truyện ngắn có
đến hai sự kiện “tranh nhau” đóng vai trò hạt nhân, vai trò quán xuyến, thì truyện
ngắn đang “vươn vai” thành truyện dài ; b) dạng giản lược : khi một truyện ngắn
co mình lại trong một số chữ hạn định để thành truyện cực ngắn, truyện mini, thì
có thể thấy các thành tố khác của truyện như nhân vật, cảnh vật, lời trần thuật có
thể giảm thiểu đến kiệt cùng, còn cái mà nó quyết giữ chính là tình huống. Mất
“tình huống” nó có thể thành tản văn, thành tuỳ bút, thành thơ văn xuôi, thành kí,
nghĩa là thành gì gì khác… chứ quyết không thể còn là truyện ngắn. Mất tình
huống tức là mất tính cách truyện ngắn. Vì thế mà có thể thấy vai trò của nó trong
hai tương quan sau :
+ Với văn bản truyện ngắn : nó là nhân tố tổ chức của thiên truyện. Tức là nó
bao trùm và chi phối các thành tố khác như nhân vật, cảnh vật, bố cục, kết cấu, lời
trần thuật… Nhìn ở chiều ngược lại, những thành tố kia châu tuần xung quanh để
làm sống dậy cái tình huống này. Diện mạo của một truyện ngắn, xét đến cùng, là
do tình huống quyết định.
+ Với người viết truyện ngắn : tạo được một tình huống đặc sắc, xem như đã có
một tiền đề khá chắc chắn cho thành công của tác phẩm. Nghĩa là, để làm nên một
truyện ngắn đầy đặn, người viết còn phải lo nhiều khâu khác như dựng người, dựng
cảnh, lo tâm lí, lo đối thoại … như thế nào nữa. Nhưng lo được tình huống rồi thì
coi như đã có một hứa hẹn tin cậy. Sáng tạo tình huống truyện là phần việc cốt yếu
của lao động truyện ngắn vậy.
Từ đó có thể rút ra phương pháp luận đối với người đọc truyện ngắn là : bước
vào một truyện ngắn cần phải nắm được giá trị của các bình diện nghệ thuật cấu
thành cái thực thể sinh động là truyện ngắn. Nhưng nếu chưa nắm được tình huống
thì coi như chưa nắm được chiếc chìa khoá vàng để mở vào thế giới bí ẩn của truyện
ngắn ấy.
2. Phân loại.
Từ quan niệm về tình huống, có thể có cách phân loại truyện ngắn sau đây :
2.1 Về tính chất, có thể thấy truyện ngắn có ba dạng chính, bởi chứa đựng badạng tình huống truyện căn bản :
dạng tình huống truyện căn bản :
– Tình huống hành động. Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy
tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống
này thường hướng tới một kiểu nhân vật : Nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật
chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác
ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện : truyện ngắn
giàu kịch tính. Thậm chí mỗi thiên truyện, ở dạng rõ nét nhất, có thể coi như một
màn kịch, một vở kịch ngắn trong y phục văn xuôi (Truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan là một trường hợp tiêu biểu).
– Tình huống tâm trạng. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật
rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm.
Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là : Con người tình cảm. Nghĩa
là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo
dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác,
cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác (như
ngoại hình, hành động, lí tính…) ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến
diện mạo của toàn truyện : truyện ngắn trữ tình. (Truyện ngắn Hồ Dzếnh, Thanh
Tịnh, Thanh Châu, nhất là Thạch Lam nghiêng về dạng này)
– Tình huống nhận thức. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật
được đẩy tới một tình thế bất thường : đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên
một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật
của dạng tình huống này đương nhiên là :nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật
được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản để dệt
nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm,
toan tính v.v… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư
tưởng được nhân vật hoá vậy. Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng đương
nhiên là nghiêng về triết luận ( Nhiều truyện ngắn của Nam Cao, và của Nguyễn
Khải ở giai đoạn sau này có lẽ nghiêng về kiểu ấy). Cần lưu ý, ở những trường hợp
cực đoan, nó có thể là truyện ngắn luận đề.
Cũng cần phải lưu ý rằng : sự phân loại này là tương đối. Trong thực tế các dạng
ấy đều ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn toàn”thuần chủng” như mô tả. Viêc
nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó.
2.2. Về số lượng, có thể thấy truyện ngắn có hai loại : 1) truyện một tình
huống. Cả truyện ngắn chỉ xoay quanh có một tình huống duy nhất bao trùm. Có
thể nói đây là loại truyện ngắn điển hình.2) truyện ngắn nhiều tình huống. Cả thiên
truyện được dệt từ nhiều tình huống. Tuy nhiên, trong đó, chúng cũng phân vai
thành chính – phụ (nghĩa là có cái nào đó là chủ chốt) chứ không phải tất cả đều
ngang hàng nhau, theo lối dàn đều. Đây là dạng truyện ngắn không thật điển hình.
Chúng thường có dáng dấp của một truyện dài thu nhỏ, hơn là một truyện ngắn
thực thụ (trong chương trình cấp ba, có thể ví dụ : Chí phèo của Nam Cao, Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài, Mùa lạc của Nguyễn khải, Tướng về hưu của Nguyễn
Huy Thiệp…)
Từ chỗ coi tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn, có thể thấy :
thực ra, chỉ có Truyện ngắn và Truyện dài. Không có cái gọi là Truyện vừa. Bởi
việc phân định ra Truyện vừa chỉ dựa vào có một tiêu chí rất phụ là độ dài trung
bình của văn bản truyện mà thôi.
3, Phương pháp tiếp cận tình huống.
Từ những nội dung lí thuyết trình bày trên đây, ít nhất có thể rút ra những ý nghĩa
phương pháp luận đối với việc tiếp cận sau : với người đọc, bước vào một truyện
ngắn tuy không thể bỏ qua việc phân tích tìm hiểu các thành tố khác cấu thành cái
thực thể sinh động là truyện ngắn (như nhân vật, cảnh vật, cốt truyện, kết cấu,
ngôn ngữ…), nhưng nếu chưa nắm được tình huống thì coi như chưa nắm được
chiếc chìa khoá quan trọng nhất để mở vào thế giới bí ẩn của truyện ngắn ấy. Đọc
vào truyện ngắn thì điều tối quan trọng là phải đọc cho ra tình huống truyện của
nó.
Có thể hình dung về qui trình tiếp cận tình huống với các bước chính như sau :
Bước 1. Xác định tình huống truyện :
– Đặt câu hỏi : Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện
này ? Hay Sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn
này ?…
– Tổng hợp các tình tiết : Lướt qua những tình tiết chính và xác định : một trong
các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng
chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy
mới trùm lên tất cả ? Đáng chú ý nhất ở đấy là cái tình thế bất thường nào đó mà
chúng chứa đựng.
– Tìm tên gọi để định danh: Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích
hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.
Bước 2: Phân tích tình huống. Cần tiến hành phân tích các bình diện cơ bản sau
đây:
– Diện mạo của tình huống (bình diện không gian)
– Diễn biến của tình huống (bình diện thời gian)
– Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ
chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn)
Bước 3: Rút ra ý nghĩa của tình huống:
Tức là rút ra cái thông điệp thẩm mĩ mà tình huống chứa đựng
– Về quan niệm : Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?
– Về cảm xúc : Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ?
Ví dụ minh hoạ
a) Loại truyện ngắn điển hình với một tình huống. Có thể phân tích 3 ví dụ :
Vd1 : Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân : Tình huống hành động – kiểu nhân vật
hành động – truyện ngắn giàu kịch tính. Vd2 : Hai đứa trẻ của Thạch Lam : Tình
huống tâm trạng – kiểu nhân vật tình cảm – dạng truyện ngắn trữ tình ; Vd3 : Đôi
mắt của Nam Cao : tình huống nhận thức – kiểu nhân vật tư tưởng – dạng truyện
ngắn triết luận ;
b) Loại truyện không thật điển hình : với nhiều tình huống. Phân tích hai ví dụ.
– Vd1 : Truyện ngắn Chí phèo của Nam Cao.
– Vd2 : Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.