TIÊU THỤ TÀI SẢN PHẠM TỘI MÀ CÓ BỊ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO? – Luật Công Tâm

Thực tế, trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại nhiều nơi tiêu thụ tài sản phạm pháp, sẵn sàng mua lại những tài sản do các đối tượng phạm tội mang đến, bởi thực tế rất nhiều tài sản do các đối tượng trộm cắp, cướp giật… đã được tiêu thụ chót lọt. Những điểm tiêu thụ tài sản phạm pháp này thường được ngụy trang bằng hình thức kinh doanh hợp pháp, như: Các cửa hàng cầm đồ, sửa chữa, mua bán xe máy, điện thoại cũ… nhằm dễ dàng che đậy cho những hành vi tiêu thụ tài sản phạm, chính vì vậy đã phần nào tạo điều kiện thúc đẩy cho các đối tượng trộm cắp, cướp giật… phạm tội, vì biết là có thể dễ dàng tiêu thụ những tài sản này. Có thể nói, đồng hành cùng các tội phạm trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản là các vụ việc tiêu thụ tài sản phạm pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ phát hiện, điều tra ra các tội phạm “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là rất thấp, không đáng kể so với tình hình gia tăng của tội xâm phạm sở hữu.

Nguyên nhân của việc không điều tra, xử lý được đối với loại tội phạm này một phần do phương pháp, thủ đoạn của các đối tượng tội phạm ngày càng tinh vi, một phần do chính quy định pháp luật của ta chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng.

Điều 323 BLHS năm 2015 quy định: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo nội dung quy định của Điều luật này, người phạm tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì phải “biết rõ” tài sản mà họ tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có.

2. Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.

Như vậy, quy định trên đã giải thích khái niệm “biết rõ” trong tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là “có căn cứ chứng minh”, chứ không nêu là đối tượng phải “khai nhận” hoặc nhận tội mới là “biết rõ”. Ý nghĩa của cụm từ “có căn cứ chứng minh” ở đây rất rộng, bao gồm các tài liệu, chứng cứ vật chất mà Cơ quan điều tra thu thập được, chứ không phải là duy nhất chứng cứ về chủ quan (lời khai nhận) của tội phạm. Nói cách khác, “có căn cứ chứng minh” được hiểu là phải đánh giá một cách tổng quát, toàn diện các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết có trong hồ sơ để kết luận đối tượng có “biết rõ” hay không, chứ không được phụ thuộc vào duy nhất lời khai của đối tượng. Việc phụ thuộc vào lời khai của đối tượng để buộc tội là không chắc chắn, bởi có thể đối tượng đầu tiên khai nhận, sau phản cung thì các cơ quan tố tụng sẽ không còn căn cứ để buộc tội. Chính vì vậy, cần hiểu cụm từ “biết rõ” trong tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có một cách toàn diện hơn và không đánh giá vào việc đối tượng trực tiếp khai nhận mới là “biết rõ”.

Điều hướng bài viết