THU HOẠCH LÀNG VĂN HÓA – thu hoặc sau khi đi làng văn hóa 54 dân tộc – ĐỀ BÀI: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN – Studocu

ĐỀ BÀI: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ê-ĐÊ VÀ

VẤN ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM.

PHẦN MỞ ĐẦU

Văn hóa Việt Nam là một tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng
các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. 54 dân tộc anh
em – trải dài trên khắp mảnh đất hình chữ S, đã và đang giữ gìn, phát huy những truyền
thống văn hóa in đậm bản sắc của quê hương. Mặc dù phải trải qua nhiều thời kỳ đô hộ,
thế nhưng, nhờ nền tảng sức mạnh văn hóa to lớn và sự đoàn kết đồng lòng, kề vai sát
cánh của các dân tộc, chúng ta không những không bị đồng hóa, mà còn quật cường đứng
lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Trong khoảng thời gian gần đây, sinh viên Chất lượng cao K24 chúng tôi may mắn
có cơ hội được tham quan và trải nghiệm Làng Văn hóa Du lịch các Dân tộc Việt Nam
(Cổ Đông, Ba Vì, Hà Nội). Chuyến tham quan lần này đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về
văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc anh em, đặc biệt là bản sắc văn hóa dân
tộc Ê-đê. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề đại
đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Vì vậy, để khám phá rõ hơn những nét đẹp trong truyền
thống văn hóa của người Ê-đê cũng như những ý nghĩa to lớn, vai trò đặc biệt của khối
đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay, nhóm 5 chúng tôi sẽ thể hiện và trình bày qua bài
thu hoạch dưới đây.

PHẦN NỘI DUNG:
I. MỘT SỐ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÂN TỘC Ê-ĐÊ.
1. Lịch sử, nguồn gốc và tên gọi Anak Đêga (Ê-đê).
Người Ê Đê cho rằng vị thần cao nhất của họ là A.Ê – D.Ê nghĩa là Thượng Đế theo truyền
thuyết của người Ê Đê được lưu truyền đến ngày nay. Do vậy người Êđê tự gọi mình là Anak
A.Ê – D.Ê tức là những đứa con của Thượng Đế, sau này đọc trệch đi là Anak Ê Đê. Bia ký
Chăm Pa cổ nhất tại Tháp Bà Pô Naga cũng đã ghi chép về tộc danh Rang Đê vùng sông Nha
Trang, Sông Dinh, Sông Hinh vào khoảng thế kỷ VIII, có lẽ Rang Đê biến âm sau này thành
Rađê, Rađêy hay Êđê. Cuối thế kỷ XIII trước sự tấn công ồ ạt của đế quốc Mông Cổ, sau này
là Nam Tiến của người Việt xuống đất Chăm Pa đã đẩy bộ phận người Chăm Pa lên vùng
bình nguyên Cheo Reo và hòa hợp với người Ê Đê cổ tạo ra nhóm tộc người mới tự gọi là
Anak Jarai, đây là nhánh lớn của tộc người Orang Đê cổ. Trước năm 1975, tại miền nam Việt
Nam, trong văn bản hành chính của Việt Nam Cộng Hoà, người Ê Đê được gọi là Rađê.
Ngoài ra, người Êđê họ còn gọi toàn bộ cộng đồng họ bằng từ có nguồn gốc từ tiếng Phạn Ấn

Độ là Đêgar,Êđê Êga, Đêga nghĩa là Cao Nguyên. Anak Đêgar cũng được hiểu là những
người sống trên Cao Nguyên.

  1. Dân số và địa bàn cư trú. –
    Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng gần một nửa triệu (~490 người) đang sinh sống ở
    các nước trên thế giới như Campuchia, Việt Nam, Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Pháp,
    Phần Lan, Thụy Điển… Trong đó miền trung cao nguyên của Việt Nam là quê hương
    bản địa lâu đời của người Ê Đê. Đây là nhóm dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc
    người nói tiếng Mã Lai từ các hải đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông
    Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm nét mẫu hệ thể hiện dấu vết hải đảo của
    nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo. Các nhóm địa phương bao gồm: Kpă
    (chính dòng), Adham, Mdhur, Bih, Krung…
    Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 , người Ê Đê ở Việt Nam có dân số
    331 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ê Đê cư trú tập
    trung tại tỉnh:
    ● Đắc Lắc (298 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và 90,1% tổng số người Ê Đê
    tại Việt Nam),
    ● Phú Yên (20 người),
    ● Đắc Nông (5 người),
    ● Khánh Hòa (3 người).

  2. Đặc điểm kinh tế.
    Trước đây, người Ê-đê nổi tiếng với truyền thống làm nương rẫy theo hình thức luân
    canh. Việc canh tác này được cho là để các phần đất, phần ruộng không bị khai thác hết
    tất cả nguồn dinh dưỡng và có thời gian để có thể cải thiện và bổ sung dưỡng chất. Như
    vậy, các mùa vụ sau mới có thể khai thác và mang lại kết quả trồng trọt hiệu quả nhất.
    Còn ngày nay, người dân đã biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển các mô hình
    kinh tế. Các hộ dân mạnh dạn chuyển đổi các diện tích hoa màu, đất trồng lúa không hiệu
    quả sang trồng các loại cây công nghiệp theo hướng hàng hoá. Họ chú trọng vào việc
    khai thác và trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, hồ tiêu hay ca cao –
    những loại cây công nghiệp nổi tiếng và phù hợp với khí hậu Tây Nguyên. Bên cạnh đó,
    người Ê-đê còn tham gia chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải để phát
    triển kinh tế.

  • vnbusiness/business/dong-bao-e-de-o-dak-lak-phat-trien-kinh-te-ben-vung-bai
    -1-buon-lang-doi-thay-tu-chuyen-doi-cay-trong-1078584
  • mattrankhanhhoa.org/chitiettin/id/283/Nguoi-E-De

Trang phục nam: Người đàn ông Ê Đê có tập quán mang khố màu đen, có nhiều đường
hoa văn chỉ màu chạy dọc theo hai bên mép vải và tua dài ở hai đầu, khố buông đầu dài
phía trước. Chiếc áo lễ phục của nam giới Ê đê thường có phần tay áo khá dài. Cùng với
đó là vạt sau dài hơn vạt trước. Vạt trước có thể che hết được phần bụng dưới còn vạt sau
thì che hết mông của người mặc.

maru/trang-phuc-ede-
daklak/doi-song/thoi-trang-lam-dep/trang-phuc-dan-toc-e-de
3. Tín ngưỡng, tôn giáo.

Dân tộc Ê đê có niềm tin vào vạn vật hữu linh. Mọi vật trên thế giới này đều được tạo ra
dưới bàn tay của các vị thần. Trong tín ngưỡng của người Ê đê, đất và nước đều là những
vật báu được các vị thần tạo nên và cai quản. thường sẽ có những người nắm giữ chức sắc
như Pô Lăn, Pô pin, được giao trọng trách đại diện cho thần linh, là sứ giả của các vị
thần, có nhiệm vụ quản lý đất và nước của bản làng theo thần linh. Và tương tự các vị
thần giá thần thiện thần ác cũng như vậy.
daklak/kham-pha/van-hoa-lich-su/tin-nguong-cua-nguoi-e-de

  1. Hôn nhân và gia đình.

Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ,
con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà
vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình.
Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.Chỉ con gái được thừa
kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng
cha mẹ già.

  1. Phong tục tập quán.

Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng là chủ yếu. Muối ớt là thức ăn không thể thiếu. Đồng bào
thích uống rượu cần, hút thuốc lá cuốn, ăn trầu. Họ ở nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng
hình thuyền là nhà truyền truyền thống. Gia đình được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Các
gia đình quần tụ theo đơn vị buôn hôn nhân phụ nữ giữ vai trò chủ động và người
Ê-đê có tục ở rể và “nối dòng”. Về vận chuyển, chủ yếu là gùi đan hoặc voi và thuyền độc
mộc. Họ có tục nối dây .Cùng với tục kết nghĩa thì tục nối dây cũng là một trong những
nét đặc sắc trong văn hóa của người Ê đê. Theo như quy định của phong tục này, sau khi
người chồng trong gia đình không may qua đời thì người vợ được phép cưới người anh,
người em hay người cháu trong gia đình, họ hàng của người chồng. Ngoài ra, nếu như
người vợ mất sớm thì người chồng cũng phải được cử hành hôn lễ với người vợ mới là
em gái, cháu gái của người vợ. Ngoài ra họ có tục kết nghĩa. Lễ kết nghĩa của người Ê đê
thường được xây dựng theo quan hệ cha mẹ – con cái hoặc anh – em, chị – em với nhau.
Đặc biệt, đối với nam giới, sau khi đã lấy vợ và theo về nhà vợ ở một bản khác, một làng
khác sẽ thường kết nghĩa với một chị em gái trong gia đình nào đó. Sau khi lễ kết nghĩa
được hoàn tất, người được nhận kết nghĩa sẽ chính thức trở thành thành viên trong gia
đình và dòng họ nhận kết nghĩa.

III. VẤN ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM.

  1. Định nghĩa, thực trạng về tình hình đại đoàn kết dân tộc hiện nay ở việt nam
    Định nghĩa:
    Theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
    đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
    lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của
    cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”
    Thực trạng:
    Việt Nam là một quốc gia thống nhất đa dân tộc. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống
    yêu nước nồng nàn, sâu sắc, có truyền thống đoàn kết chặt chẽ. Các dân tộc thiểu số ở
    nước ta cư trú trên địa bàn có tầm quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, an ninh,
    quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Các dân tộc ở nước ta cư trú phân tán và xen
    kẽ. Các dân tộc nước ta còn có sự chênh lệch về trình độ phát triển. Sự tác động của
    những đặc điểm của các dân tộc ở nước ta tới quá trình xây dựng khối đoàn kết có tính
    hai mặt. Bên cạnh những đặc điểm đem đến sự thuận lợi còn có một số yếu tố đặt ra
    thách thức, khó khăn nhất định đến quá trình phát huy sức mạnh đoàn kết giữa các dân
    tộc ở nước ta. Điều đó cho thấy đặc điểm của các dân tộc là một trong những căn cứ, cơ
    sở thực tiễn quan trọng để xây dựng chiến lược nhằm tăng cường, củng cố khối đoàn kết
    các dân tộc.

  2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
    Đại đoàn kết dân tộc là một trong những hệ thống quan điểm, các nguyên tắc tổ chức và
    tập hợp lực lượng cách mạng nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp trong xã hội, phát huy
    đến mức cao nhất sức mạnh của cả dân tộc.
    Đây là một chiến lược nhất quán và xuyên suốt trong việc tập hợp lực lượng cách mạng,
    là nhân tố quyết định đến sự thành công của cách mạng nước ta. Truyền thống yêu nước,
    nhân ái và tinh thần gắn kết cộng đồng của dân tộc chính là những cơ sở quan trọng trong
    việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
    Khối đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên cơ sở lập trường của giai cấp công
    nhân phải lấy liên minh công nông trí làm nền tảng và do Đảng lãnh đạo. Nguyên tắc này
    xuất phát từ việc đại đoàn kết không phải là tập hợp các lực lượng xã hội một cách ngẫu
    nhiên mà cần phải tập hợp một cách bền vững của các lực lượng có tổ chức, có định
    hướng và có lãnh đạo.

  3. Liên hệ thực tế với SV

Có thể thấy việc sinh viên có trách nhiệm trong việc củng cố và góp phần khối đại đoàn
kết dân tộc là việc ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đây cũng
được coi là tư tưởng cơ bản trong việc chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, hình thành sức
mạnh vững chắc, là một vấn đề sống của cách mạng.
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, sinh viên phải ra sức học tập để lĩnh hội được
nhiều tri thức có ích. Cần phấn đấu và trở nên gương mẫu trong các hoạt động xã hội, vận
dụng sáng tạo để góp phần cho đất nước ngày càng một phát triển mạnh mẽ hơn. Luôn
giữ vững lập trường của mình, dám nói lên tiếng nói của mình. Giữ chuẩn mực đạo đức
của ông cha ta từ xưa đến nay.
Thêm vào đó với việc xây dựng Đảng, sinh viên cần luôn cảnh giác với những thế lực thù
địch chống phá Việt Nam, bạo loạn lật đổ của các chủ nghĩa đế quốc. Luôn trau dồi, học
hỏi, học tập và rèn luyện theo tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng Đảng cũng như
về sự nghiệp của thanh niên Việt Nam. Luôn trung thành tuyệt đối với Đảng và Nhà
nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, phản động có mưu đồ xâm hại
nước ta.
Ngoài ra, trong xu thế toàn cầu hiện nay, bản thân là một sinh viên thì phải có trách
nhiệm sáng suốt trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản thân sa lầy vào những hội
phản động, lôi kéo lối sống thực dụng. Sinh viên ngày nay phải tham gia vào các hoạt
động tình nguyện giúp đỡ, tuyên truyền ý thức tự giác, kỷ luật nhằm đẩy mạnh trong
công tác xây dựng Đảng. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà
nước đến với mọi người. Tìm biện pháp để phòng chống suy thoái về phẩm chất đạo đức.
Quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc vẫn là sinh
viên cần hiểu rõ về 54 dân tộc anh em. Có hiểu nhau thì mới có thể đoàn kết, mới có thể
cùng chung tay góp sức bảo vệ Tổ quốc. Sống chan hoà, thân ái với mọi người, tuyệt đối
không nên xa lánh hay kì thị bất cứ dân tộc nào ở trên đất nước Việt Nam.

  1. Vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa của khối đại đoàn kết dân tộc

  2. Biện pháp để bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc
    Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập ở nước ta, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược
    “Diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn
    kết toàn dân tộc ở nước ta; làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm
    trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Những vấn đề đó đang là những thách
    thức đối với “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và sự nghiệp bảo vệ an
    ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay.
    Trong bối cảnh tình hình trên, để tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần
    thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản như sau: