Skkn một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi | Xemtailieu

Skkn một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 4 5 tuổi

  • pdf

  • 27

    trang

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————————————-

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ

MẦM NON

Quảng Bình, ngày 20 tháng 5 năm 2015

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————————————-

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ

MẦM NON

Họ và tên: Bùi Thị Lưu

Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị: Trường mầm non Hồng Thủy

Quảng Bình, ngày 20 tháng 5 năm 2015

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài:

Như chúng ta đã biết, từ ngàn xưa kinh nghiệm của cha ông ta đã đúc kết nhiệm

vụ học đầu tiên của mỗi con người phải là “Tiên học lễ, hậu học văn” lễ phép là nét đẹp

văn hoá được đặt lên hàng đầu khi nhìn nhận và đánh giá về một ai đó mà chúng ta

thường bàn luận. Trong thời đại hiện nay tiếp thu nhiều nền văn hoá khác nhau nên đâu

đó vẫn còn nhiều câu chuyện thương tâm về đạo đức lễ giáo của con người, việc mà tôi

và các bạn đã nghe và thấy trên thông tin đại chúng, trong cuộc sống hằng ngày.

Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp

với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách

ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có

những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì thế, ngày

nay trên thế giới rất nhiều trường mầ m non áp dụng phương pháp học trung tính là

phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác.

Ở Viêṭ nam, từ năm ho ̣c 2008-2009, Bô ̣ Giáo du ̣c- Đào ta ̣o đã phát đô ̣ng phong

trào “ Xây dựng trường ho ̣c thân thiêṇ ho ̣c sinh tıć h cực”, với yêu cầ u tăng cường sự

tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường

và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nô ̣i dung

thực hiêṇ có nô ̣i dung rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.

Về phıá các bậc cha me ̣ trẻ em luôn quan tâm đế n viêc̣ làm sao để kích thích tính

tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết ngay trong

những năm tháng học ở mẫu giáo, đă ̣c biệt là các bậc cha mẹ có con chuẩn bị vào lớp

một.

Đố i với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những vấ n

đề về hành vi và khả năng tâ ̣p trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn

giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng

nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những

điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp

trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.

Nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong thời đại công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít đươ ̣c quan tâm chú ý tới và ít người biết được rằng:

Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh của con người.

Vı̀ thế , trẻ cầ n đươ ̣c rèn luyê ̣n kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa ăn uố ng.

Bỡi vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là nhiệm vụ trọng tâm làm cơ sở cho trẻ phát

triển toàn diện đủ năng lực đức, tài trở thành những con người mới trong công cuộc xây

dựng đất nước giàu mạnh. Qua thực tế áp dụng dạy trẻ, thực tế hiện nay trong trường

mầm non, chúng tôi thấy rằng sự quan tâm đúng mức tới giáo dục kỷ năng sống cho trẻ

mẫu giáo thực sự chưa đầy đủ lắm. Chính vì vậy tôi mạnh dạn xin được chọn đề tài:

“Một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi” để nghiên cứu.

1.2. Điểm mới của đề tài.

Xuất phát từ vai trò quan trọng của “Giáo dục kỹ năng sống” đối với trẻ, tôi thấy việc

giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng và có ý nghĩa. Nhưng

làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có hiệu quả? Điều này quả

không dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.

Với đề tài này tôi biết đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều bạn

đồng nghiệp trong ngành. Với đề tài tôi đang viết nó có những điểm mới: Tôi dành sự

quan tâm và hình thành ở trẻ những kỹ năng sống . Giáo dục cách sống tích cực trong xã

hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ

có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết

xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống .

1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:

Việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực

nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên mầm non

đang dạy lớp 4-5 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi

trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm

non.

II. PHẦN NỘI DUNG

2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp

Trong quá trıǹ h rèn kỹ năng sống cho trẻ nhằm thực hiêṇ tốt phong trào“ Xây

dựng trường ho ̣c thân thiên-ho

̣

̣c sinh tı́ch cực”, tôi đã gă ̣p những thuâ ̣n lơ ̣i và khó khăn

sau:

Thuận lợi :

Bô ̣ Giáo du ̣c- Đào ta ̣o đã phát đô ̣ng phong trào“ Xây dựng trường ho ̣c thân thiêṇ

ho ̣c sinh tıć h cực” với những kế hoa ̣ch nhấ t quán từ trung ương đế n điạ phương, Phòng

giáo du ̣c- Đào ta ̣o cũng đã có kế hoa ̣ch từng năm học với những biêṇ pháp cu ̣ thể để rèn

kỹ năng sống cho học sinh mô ̣t cách chung nhấ t cho các bâ ̣c ho ̣c, đây chı́nh là những

đinh

̣ hướng giúp giáo viên thực hiêṇ như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình

huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện

sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước

và các tai nạn thương tích khác: rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa

bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.

Trường ho ̣c nơi tôi công tác là ngôi trường được xây mới khang trang sạch sẽ nên

thuâ ̣n lơ ̣i trong viê ̣c thực hiê ̣n nô ̣i dung xây dựng môi trường giáo du ̣c sa ̣ch đep,

̣ an toàn

cho trẻ.

Khó khăn:

Về phı́a các bậc cha me ̣ trẻ em luôn nóng vô ̣i trong viêc̣ da ̣y con; do đó, khi trẻ

về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá!

Đồ ng thời la ̣i chiề u chuô ̣ng, cung phụng con cái khiế n trẻ không có kỹ năng tự phu ̣c vu ̣,

chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đế n con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử

dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những

đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?

Đố i với giáo viên mầm non

Phong trào“ Xây dựng trường ho ̣c thân thiên,

̣ ho ̣c sinh tıć h cực” tâ ̣p trung nhiề u

nô ̣i dung chung cho các bâ ̣c ho ̣c, giáo viên chưa hiể u nhiề u về nội dung phải da ̣y trẻ lứa

tuổ i mầ m non những kỹ năng số ng cơ bản nào, chưa biế t vâ ̣n du ̣ng từ những kế hoa ̣ch

đinh

̣ hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầ m non.

Đa số giáo viên lớn tuổ i có nhiề u kinh nghiê ̣m nhưng viê ̣c đổi mới phương pháp

giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức

vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gă ̣p nhiề u khó khăn; giáo viên trẻ

tuổ i ı́t hơn, năng đô ̣ng, sáng ta ̣o nhưng la ̣i khó trong công tác bồ i dưỡng do nhâ ̣n thức về

nghề chưa sâu sắ c.

Từ những thuâ ̣n lơ ̣i và khó khăn trong quá trı̀nh thực hiên,

̣ tôi đã suy nghı,̃ nghiên

cứu tài liêụ để ta ̣o điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i giúp cha me ̣ da ̣y trẻ mầ m non các kỹ năng số ng

qua đề tài: “Kinh nghiệm dạy trẻ mầ m non kỹ năng sống ”

* Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau:

TT

Khả năng

Số trẻ

KS

Đạt

1

+ Mạnh dạn tự tinh

17/30

56,6%

2

+Kỹ năng hợp tác

8/30

27%

3

+Phát âm rõ lời

17/30

56,6%

4

+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ

9/30

30%

5

+Lễ phép

12/30

40%

6

+Kỹ năng vệ sinh

18/30

60%

7

+Kỹ năng thích khám phá học hỏi

16/30

53,3%

8

+Kỹ năng tự kiểm soát bản thân

15/30

50%

– Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, chưa có biện pháp

mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và yếu còn ở

mức rất cao, số trẻ kỹ năng tự phục vụ và hợp tác còn thấp. Vì vậy tôi đã suy nghĩ trăn

trở làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao hiệu quả

cho trẻ mẫu giáo lớn 4 – 5 tuổi có kỹ năng sống đạt hiệu quả cao.

2.2. Các giải pháp

2.2.1: Lập kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên để phát triển các kỹ năng sống.

Tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong

việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 4-5 tuổi, khả năng tập trung chú

ý và ghi nhớ có chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ

năng chúng ta dạy trẻ không được cũng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng

sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ

năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho

trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng

sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.

Ví dụ : Hàng tuần vào sáng thứ 2, tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện cùng trẻ

khoảng 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp cho

trẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng nghe, biết dùng ngôn ngữ

của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở nhà của bé hay trao đổi cùng cô về

chủ đề đang học. Cuối chương trình cho trẻ nhận xét câu chuyện nào hay nhất sẽ đựơc

nhận phần thưởng của cô.( Phần thưởng có thể là một bông hoa , một bức tranh vẽ một

con vật hay một hạt giống cây nảy mầm….Các phần thưởng được thay đổi theo từng chủ

đề). Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần. Trẻ đã có

thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn tự tin khi kể

“chuyện của mình” cho bạn nghe.

Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm quen

với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 15 phút để tổ chức cho trẻ luyện tập thực

hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:

Chiều thứ 2, tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản thân

như rửa tay, lấy nước uống, mặc quần áo, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn một

trò chơi khác nhau.

Ví dụ: Khi dạy trẻ cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo hơn”, cách

chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ các thao tác

mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 10 đến 1, khi nghe hết

giờ phải dừng tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội dung cho

trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến

phức tạp. Chẳng hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo

có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là áo

có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập thường

xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. với cách tổ chức có hệ

thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.

Chiều thứ 4, tôi tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có kèm những câu

chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con người, giữa con người

với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo dục trẻ kỹ năng ứng xử phù hợp

với xung quanh.

Ví dụ : Cho trẻ xem đoạn phim về câu chuyện “Món quà của cô giáo”. Tôi trò chuyện

cùng trẻ:

– Vì sao Gấu Xù không nhận quà của cô giáo ? ( Vì Gấu Xù thấy mình có lổi ).

– Bạn Cún Đốm đã nói gì với cô giáo ? (Thưa cô lổi tại con, chính con đã bá vai Gấu

Xù làm Gấu Xù ngã vào Mèo Khoang)

– Vì sao Cún Đốm và Gấu Xù vẫn nhận được quà và bé ngoan? (Vì hai bạn đã nhận ra

được lổi của mình)

Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo dục trẻ

cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ luôn có ý thức ứng

xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh.

Chiều thứ 5, tôi tổ chức các hoạt động nhằm dạy trẻ kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.

Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không gây ồn, khi

xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi ngồi ăn ghế phải xếp

sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp dép phải xếp kẹp đôi, tổ chim

non xếp ngăn trên của giá dép, tổ hoa hồng xếp ngăn giữa, tổ thỏ con xếp ngăn dưới…

Nhờ được tham ra và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong việc chấp hành

các quy tắc cô đưa ra rất tốt.

Chiều thứ 6, tôi tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các góc nhằm phát

triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp. Những tuần đầu, tôi cho

trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm như vậy? Cách sắp xếp như thế nào

cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ, yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem

đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ

năng hợp tác của trẻ được phát triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn

thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối

quan hệ cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng đồ

chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện pháp này,

các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính xác.

2.2.2: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cầ n da ̣y trẻ:

+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát

triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về

cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ

luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.

+ Kỹ năng số ng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giúp trẻ học cách

cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả

năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.

+ Kỹ năng thích tò mò, ham ho ̣c hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những

kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học, sử

dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều

nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất

khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.

+ Kỹ năng giao tiếp: cần da ̣y trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của

mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế

giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị

trí chính yế u khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu

khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ

sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố

cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.

Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cầ n dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống

qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ

trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biế t cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn

uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây

tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự

dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn,

ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.

2.2.3 : Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Phát triển các kỹ năng sống

qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường

Từ việc phối hợp với phụ huynh, tôi có thêm thông tin về các kỹ năng sống của

trẻ ở nhà . Từ đó tôi có kế hoạch cụ thể và lựa chọn phương pháp giáo dục kỹ năng sống

cho trẻ phù hợp bằng cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.

Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong

sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc

đẩy mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả năng

định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động

để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp.

Thông qua giờ đón trẻ, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ ( Biết lễ

phép chào cô, chào bố mẹ, hỏi han bạn….Hoặc tôi lồng ghép kỹ năng tự phục vụ bản

thân và chấp hành quy định của lớp.

Ví dụ : Tôi dạy trẻ biết cất cặp vào giá, biết xếp dép lên giá, đi vệ sinh đúng nơi quy

định…..)

Thông qua hoạt động có chủ định, đây là một trong những hoạt động để tôi tích

hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ vào nội dung của

từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.

Ví dụ : Qua tiết học KPKH: Trò chuyện một số bộ phận trên cơ thể, tôi dạy trẻ kỹ năng

sau: Kỹ năng chăm sóc bản thân: Trẻ có một số kỹ năng và có ý thức giữ gìn, bảo vệ các

bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao tiếp tự tin: Khi trả lời phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng

vào cô, nói to, rõ ràng….Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn nói phải giơ tay,

chờ đến lượt cô mời mới được nói, không nói leo, tập chung chú ý nghe cô…Chính vì

thế trẻ lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ theo sự hướng

dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.

-Thông qua hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ năng khác nhau.

Ví dụ : Qua việc trò chuyện quan sát Cầu trượt. Trẻ nhận biết được một số nguyên nhân

gây ngã, gây tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các kỹ năng tôi dạy trẻ

đó là:

– Kỹ năng giao tiếp: Trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.

– Kỹ năng xử lý tình huống: Khi ngồi trên cầu trượt bé cần làm gì?( Vịn hai tay vào 2

thành của cầu trượt, rồi đẩy người cho trượt xuống. Nếu bạn nào trượt nhanh bị ngã thì

thì bạn chơi cùng nhanh chóng đở bạn dậy hoặc chạy đến gọi cô …)

– Kỹ năng ra quyết định: Làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã? ( Không trượt

quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên Cầu trượt, vịn chắc thanh cầu trượt…)

Thông qua giờ hoạt động góc, chúng ta biết rằng: “Trẻ học bằng chơi, chơi mà

học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các góc thì các kỹ năng sống đựơc trẻ tiếp thu một

cách dễ dàng nhất.

Ví dụ : Qua góc chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp

( giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con), kỹ năng chăm sóc ( biết

lấy nước cho con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác ( trẻ học được cách chơi

trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh…. Sau khi chơi xong trẻ biết

cất đồ chơi đúng nơi quy định.

Không chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả các góc

chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể được cũng cố và phát huy.

Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp tôi đã biết

tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi của nhau và

đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.

Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ

qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi

văn hoá văn minh như:

– Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.

– Cách rót nước, chia thức ăn.

– Chuẩn bị bàn ghế cho bữa ăn ( tự kê bàn ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát…)

– Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống ( Trẻ biết mời cô,

mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn

hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che

miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…)

Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng nơi quy

định, biết lau chùi chân trước khi lên sạp, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang

ngủ.

Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động khác

trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ….Bằng việc tạo tình

huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng cố các kỹ năng của

mình.

Tóm lại, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo tính liên

tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói quen, thành thuộc

tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá nhiều

sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho

trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ

năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống

cho trẻ rất hiệu quả.

Nội dung phong trào“ Xây dựng trường ho ̣c thân thiên,

̣ ho ̣c sinh tıć h cực”, trong

đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết

thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân

gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.

– Làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điêụ múa thể loa ̣i dân ca cho trẻ ở lứa

tuổi mầm non.

– Tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi

giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Đưa ca dao hò khoan Lệ

Thuỷ vào chương trình giáo dục trẻ.

– Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt

động ngoài trời, trẻ được xem các câu chuyện cổ tích, hỏi đáp về nội dung các câu

chuyện.

– Tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa

tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng

và phong phú của cha me ̣ trẻ em, các tổ chức, lực lươ ̣ng xã hô ̣i, cá nhân trong việc giáo

dục văn hóa, truyền thống, giáo du ̣c lòng yêu nước cho trẻ.

– Tổ chức cho trẻ mẫu giáo đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ,

từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát

triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.

Các hoạt động tự chọn được duy trì mỗi tháng có sự tham gia trực tiếp của cha me ̣

để cùng nặn, cùng vẽ giúp con mình hoàn thành sản phẩm, phối hợp với giáo viên một

cách chặt chẽ và hợp lý. Giáo viên chủ động thay đổi nội dung, hình thức tổ chức và

luân phiên thay đổi thành phần tham dự để tất cả các bậc cha mẹ đều có sự tham gia trực

tiếp của cha me ̣ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện kỹ năng hợp tác với đồng đội để

chiến thắng, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống tự tin, khả năng nhận thức của trẻ cũng

được phát triển.

Tổ chức hoa ̣t đô ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t cho trẻ, tổ chức hoa ̣t đô ̣ng phát triể n tư duy qua có

sự tham gia trực tiếp của cha me ̣ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn,

kỹ năng hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát

triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.

Tổ chức văn nghệ gồm nhiều thể loại, đa dạng nội dung, hình thức biểu diễn

nhằm huy động sự tham gia của cha me ̣ trẻ em, các tổ chức, lực lươ ̣ng xã hô ̣i, cá nhân

trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo du ̣c lòng yêu nước cho trẻ và qua đó

tuyên truyền về hiệu quả giáo dục mầm non

Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ hai tổ chức cho toàn trường tập thể dục buổi sáng qua

những nhạc, qua đó giúp trẻ phát triển kỹ năng vận động và giáo du ̣c trẻ lòng yêu quê

hương, đấ t nước.

2.2.4: Xác đinh

̣ nhiê ̣m vụ cơ bản trong viê ̣c da ̣y trẻ kỹ năng số ng

Giáo viên có thể làm được gì để da ̣y kỹ năng số ng cho trẻ?

– Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự

chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biế t khai thác phát huy năng khiế u, tiề m

năng sáng ta ̣o ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như

thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.

– Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục

trẻ mô ̣t cách thıć h hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh

vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực

của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ

năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.

– Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác

trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biế t lắng nghe

trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ

luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ

có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc

mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin,

thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu

hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.

– Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi

với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc

cách giải quyết những khó khăn gặp phải.

2.2. 5: Tuyên truyền các bậc cha me ̣ cách daỵ trẻ kỹ năng số ng trong gia đı̀nh

Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của

riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Một số trẻ có khó khăn trong

việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân

thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ

năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ

hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường,

khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình

thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.

– Tuyên truyề n để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng

trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và

năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các

vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với

nhau.

– Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc

tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia vào

các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ

học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng

học là phải học cả đời.

– Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc

sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý

thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và

đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.

– Trong gia đıǹ h, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rấ t cầ n thiế t.

Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần

thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp

ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa,

những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.

Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng

với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ.

Ta ̣o điề u kiê ̣n tố t nhấ t cho trẻ vui chơi

Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ.

Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong viêc̣ rèn kỷ năng số ng cho

trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi

trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.

Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số thông qua các

trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm nhạc.

Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe

– Giáo viên cầ n tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mo ̣i tıǹ h huố ng như những

giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với những

trẻ khó ngủ.

– Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyê ̣n cổ tı́ch qua đó rèn luyêṇ đa ̣o đức

cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiêṇ mı̀nh, biế t đo ̣c sách, da ̣y trẻ yêu thương ba ̣n bè, yêu thương

con người. Ta ̣o hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyêṇ bằ ng tranh tùy theo lứa tuổ i, gơ ̣i mở

tıń h tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.

Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” giáo viên đă ̣t những câu hỏi gơ ̣i mở như: Nế u

là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gơ ̣i mở tıń h tò mò thay đổi đoạn kết của

truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….

– Trong gia đình, cha mẹ luân phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc

thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc

sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình.

– Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ

nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách

trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghıã hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiể u biế t,

tım

̀ tòi phát triể n nhân cách của trẻ.

Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện với

các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa cho ̣n của mình, cần

giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trıć h các

quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính

tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trừơng sau này.

Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng

ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.

Ví dụ: như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ

có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo

thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong

nhà.

Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử

dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dung đúng

chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ

sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.

Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp,

bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp,

ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí

cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những

yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn

là kỹ năng sống tự lập sau này.

2.2. 6: Tạo môi trường giúp thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống

Tôi thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoa ̣ch đánh giá trẻ bằng việc bảng đánh giá

trẻ, quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với

cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo

để đánh giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ tuổi. Cũng từ

biện pháp này, giáo viên sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng

thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì trẻ con rất khác

nhau và giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống.

Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa

phần lớn cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị các

bảng thông tin dành cho phụ huynh , các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ

dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con

mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có

liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có

thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.

Nhằm tạo môi trường đọc sách cho con trẻ, tôi đã trang bị, đóng các kệ sách thư

viện tại góc học tập, trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện

trường mầm non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”;

“hoa trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở, vừa tầm

trẻ. Khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe.

Tham gia hô ̣i thảo“ Trường ho ̣c thân thiêṇ Ho ̣c sinh tı́ch cực” về thực trạng và

giải pháp ở trường tạo điều kiện giúp tôi nhận ra những ưu điểm, hạn chế, thuận lợi, khó

khăn cùng trao đổi các biện pháp thực hiện. Đây cũng là cơ hội giúp tôi đúc rút kinh

nghiệm mà tôi đang nghiên cứu, khai thác để đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh

nghiệm.

Lâ ̣p kế hoạch, phổ biến những thông tin hỏi đáp trong việc thực hiện xây dựng

phong trào“ Trường ho ̣c thân thiên-Ho

̣

̣c sinh tıć h cực”; lập phương án triển khai đến

giáo viên, nhân viên về công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, xây dựng các tiêu chí đánh giá

và thực hiêṇ cam kế t đảm bảo an toàn cho trẻ giữa Hiệu trưởng và giáo viên, nhân viên

nhằm giúp đội ngũ có định hướng thực hiện kế hoạch cụ thể và đạt kết quả.

Trang trí sân trừơng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu

như: “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng chính hình ảnh

giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của các trẻ giúp trẻ tự

điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen

ngợi sự cố gắng của trẻ.

*KẾT QUẢ

Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận

hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được

một số kết quả trong việc dạy trẻ mầ m non các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết

quả sau:

– Kết quả trên trẻ:

– 100% trẻ đều được cha mẹ ta ̣o mo ̣i điề u kiêṇ khuyến khích khơi dậy tình tò mò,

phát triể n trı́ tưởng tươ ̣ng, năng đô ̣ng, ma ̣nh da ̣n, tự tin, 100% trẻ 4-5 tuổi đươ ̣c rèn

luyêṇ khả năng sẳ n sàng ho ̣c tâ ̣p ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.

– 100% trẻ có thói quen lao đô ̣ng tự phu ̣c vu ̣, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ

năng nhận thức; kỹ năng vâ ̣n động thô, vâ ̣n đô ̣ng tinh thông qua các hoa ̣t đô ̣ng hàng

ngày trong cuộc sống của trẻ;

– 100% trẻ đươ ̣c rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung

sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.

– 100 % trẻ đươ ̣c giáo du ̣c, chăm sóc nuôi dưỡng tố t, đươ ̣c bảo vệ sức khỏe, đươ ̣c

bảo đảm an toàn, phòng bênh,

̣ đươ ̣c theo dõi cân đo bằ ng biể u đồ phát triể n.

– Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đa ̣t từ 90% trở lên và ít gặp khó khăn khi

đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn,

chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối

trước và sau khi ngủ …

– Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống tôi

đã thu được kết quả sau:

* Kết quả khảo sát cuối năm của lớp tôi như sau:

Số trẻ KS

Khả năng

1

+ Mạnh dạn tự tinh

17/30

56,6%

28/30

93,3%

2

+Kỹ năng hợp tác

8/30

27%

26/30

86,6%

3

+Phát âm rõ lời

17/30

56,6%

28/30

93,3%

4

+Kỹ năng tự lập, tự phục vụ

9/30

30%

27/30

90%

5

+Lễ phép

12/30

40%

28/30

93,3%

6

+Kỹ năng vệ sinh

18/30

60%

29/30

96,6%

16/30

53,3%

28/30

93,3%

15/30

50%

27/30

90%

7

8

đầu năm

+Kỹ năng thích khám phá

học hỏi

+Kỹ năng tự kiểm soát bản

thân

Đạt

Số trẻ KS

TT

cuối năm

Đạt

Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ có các kỹ năng tự phục vụ trong cuộc sống

tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì vậy có thể

kết luận rằng với những biện pháp thông thường rlập khuôn, máy móc như thực trạng

hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận dụng sáng tạo

linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc dạy trẻ các kỹ năng

sống sẽ được nâng lên rõ rệt.

-Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:

– Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở

nhà trừơng. Kết quả trong sáu tháng gần đây đã có 185/250 đạt 74% thư mời lần lượt

các bậc cha mẹ đến dự giờ, tham gia vào các hoạt động dạy, hoạt động tự chọn, trực tiếp

giúp trẻ hoàn thành các bài tập, các yêu cầu của cô, đạt .