Skkn một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng & vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non tại trường mầm non yên lập | Xemtailieu

Skkn một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng & vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non tại trường mầm non yên lập

  • doc

  • 10

    trang

ĐỀ TÀI

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC DINH DƯỠNG & VỆ SINH AN TOÀN

THỰC PHẨM CHO TRẺ MẦM NON TẠI

TRƯỜNG MẦM NON YÊN LẬP

I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công

tác GD&ĐT. Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã nêu rõ: “ giáo dục là quốc sách

hàng đầu, là sự nghiệp của toàn dân, toàn nước”. Đồng thời giáo giáo dục mầm

non cũng là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân trong sự

nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, vì trẻ là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất

nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của đất nước. Vì lứa tuổi này vốn có một

tiềm lực phát triển mạnh mẽ, nếu được chăm sóc nuôi dưỡng tốt các cháu sớm

được phát triển về thể chất, trí tuệ và tình cảm một cách đúng hướng. Đó là giai

đoạn cực kì quan trọng trong sự nghiệp hình thành nhân cách.

Ở lứa tuổi mầm non việc chăm sóc nuôi dưỡng có một tầm quan trọng đặc

biệt nó tạo điều kiện về thể chất cho sự phát triển toàn diện cho trẻ, không những

trong hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai trẻ sau này. Để đảm bảo có một

sức khỏe tốt, cường tráng, dẻo dai cần chú ý đến các chất dinh dưỡng, vì dinh

dưỡng sức khỏe ngày nay đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi người,

mọi nhà. Chính ví dinh dưỡng hợp lí đã và đang nâng cao chất lượng cho cuộc

sống con người nói chung và trẻ em nói riêng. Trên thực tế chung cả nước công

tác nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non vẫn còn một số hạn chế.

Bản thân tôi đang công tác tại Trường Mầm non Yên Lập có nhiệm vụ

nuôi – dạy các cháu. Hàng năm nhà trường đón nhận các cháu từ những gia đình

khá, trung bình, nghèo, có khoảng hơn 50% số trẻ là dân tộc thiểu số. Trình độ

văn hóa không đồng đều, thời gian dành nhiều cho công việc, một phần vì kinh

tế khó khăn nên chắn chắc sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến việc chăm sóc, nuôi dạy

con. Do nhận thức được trong giai đoạn lứa tuổi này đang dần hoàn thiện về tâm

lý, nếu trẻ được nuôi dưỡng tốt là tiền đề cho sự phát triển về sau của trẻ, tôi

thiết nghĩ đây quả là một điều rất cần thiết khi tôi chọn đề tài: “Một số biện

pháp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở Trường

mầm non Yên Lập”.

II/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

Qua cơ sở thực trạng về công tác nuôi – dạy những lí luận trên thực tế để

phân tích tìm hiểu biện pháp khắc phục hạn chế, nhằm giáo dục dinh dưỡng và

vệ sinh an toàn thực phẩm ở Trường mầm non yên Lập

III/ PHẠM VI ĐỀ TÀI

1

Tìm hiểu cơ sở lí luận, cơ sở pháp lí của việc giáo dục dinh dưỡng và vệ

sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trong ngành học mầm non.

Phân tích thực trạng một số biện pháp Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an

toàn thực phẩm ở đơn vị.

Rút ra các bài học về Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.

A/ Nội dung

1/ Cơ sở lí luận

Dinh dưỡng là một quá trình phức tạp gồm việc đưa vào cơ thể, tiêu hóa,

hấp thu và đồng hóa trong cơ thể những thức ăn cần thiết để bù đắp hao phí năng

lượng, trong quá trình hoạt động của cơ thể con người tạo ra và đổi mới các tế

bào, các mô, cũng như điều tiết các chức năng của cơ thể.

Dinh dưỡng hợp lí là đảo bảo dữ cho cơ thể đủ thức ăn cần thiết một cách

tối ưu, tức là với số lượng và cơ cấu hợp lí nhất phù hợp với từng người, phù hợp

với từng lứa tuổi. Cơ thể luôn biến động và phát triển không ngừng, tốc độ phát

triển rất cao ở giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi, trẻ em Việt Nam trung bình mỗi năm cao

thêm 6.33cm đối với cháu trai, 6.24cm đối với cháu gái. Vì vậy cơ thể các cháu

đòi hỏi được cung cấp hằng ngày đầy đủ năng lượng và chất cần thiết ở mỗi thời

kì khác nhau, trẻ có những đặc điểm tâm sinh lý và đòi hỏi chất dinh dưỡng khác

nhau.

Công tác nuôi dưỡng và giáo dục lứa tuổi mầm non có tầm quan trọng đặc

biệt. Ngày nay xu hướng giáo dục tiến bộ đều coi trọng việc nuôi – dạy trẻ ở lứa

tuổi mầm non coi đó là khâu đầu tiên đặt nền tảng cho việc xây dựng con người

mai sau.

* Khái niệm về dinh dưỡng:

Dinh dưỡng là ngành khoa học nghiên cứu về vấn đề xây dựng cơ thể, duy

trì và bồi dưỡng sự phát triển của sinh vật. Sinh vật có thể là con người, cây cỏ,

xúc vật, nấm mốc,…

Giữa sinh vật và môi trường sống tiến trình dinh dưỡng tạo ra một sự trao

đổi và một thể cân đối đi liền với sự sống.

Riêng đối với con người dinh dưỡng là một ngành khoa học nghiên cứu

ảnh hưởng của các chất dinh dưỡng đối với cơ thể con người, và xác định nhu

cầu có thể và chất dinh dưỡng nhằm giúp cho con người phát triển khỏe mạnh,

sinh sản, duy trì nòi giống.

Dinh dưỡng theo nghĩa thông thường là cung cấp thực phẩm những

nguyên liệu cần thiết cho sự sống để trưởng thành và phát triển.

* Khái niệm về giáo dục dinh dưỡng:

Giáo dục dinh dưỡng là một quá trình hoạt động có mục đích, có kế hoạch

đến tình cảm, lý trí của con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành

động để đi đến tự giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khỏe của cá nhân, tập thể

và cộng đồng.

2

* Khái niệm về tình trạng dinh dưỡng:

Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm chức phận, cấu trúc và hóa

sinh, phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng có thể. Từ lâu người ta đã biết

giữa dinh dưỡng và tình trạng sức khỏe có liên quan chặt chẽ với nhau.

* Tầm quan trọng của dinh dưỡng:

Dinh dưỡng là nhu cầu hằng ngày của con người. Trẻ em cần dinh dưỡng

để phát triển về thể lực và trí tuệ, người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và

làm việc. Dinh dưỡng học nghiên cứu mối quan hệ thiết yếu giữa thức ăn và cơ

thể con người, tất cả chúng ta đều thấy rõ tầm quan trọng của việc ăn uống, đây

là nhu cầu hằng ngày, một nhu cầu cấp bách bức thiết không thể không có, chứ

không phải chỉ là để giải quyết chống lại cảm giác đói. Ăn uống cung cấp năng

lượng cho cơ thể hoạt động, ngoài ra thức ăn còn cung cấp các axit amin,

vitamin, chất khoáng là những chất cần thiết cho sự phát triển cơ thể, nếu thiếu

hoặc thừa những chất nói trên đều có thể gây bệnh hoặc ảnh hưởng bất lợi cho

sức khỏe. Chình vì thế đối với trẻ, dinh dưỡng là vai trò quyết định đến sự tăng

trưởng và phát triển của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt đúng theo yêu cầu dinh

dưỡng thì thể lực phát triển cân đối, trí tuệ phát triển hài hòa, trẻ sẽ mau lớn,

khỏe mạnh, thông minh, học giỏi. Bởi vì trẻ đang tuổi cơ thể phát triển mạnh,

nhu cầu về dinh dưỡng rất lớn, nếu thiếu ăn trẻ sẽ là đối tượng đầu tiên chịu hậu

quả các bệnh về dinh dưỡng như: suy dinh dưỡng, các bệnh do thiếu vi chất dinh

dưỡng (đần đột do thiếu iốt, hỏng mắt do thiếu vitamin A,…).

Do đó, việc quan tâm đến chế độ dinh dưỡng cho trẻ là việc cần thiết, dinh

dưỡng hợp lí đó là:

“ Khẩu phần ăn hằng ngày” phải đủ về số lượng và cân đối về chất lượng.

* Khái niệm về vệ sinh an toàn thực phẩm:

Vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả những điều kiện cần thiết từ khâu sản

xuất, chế biến bảo quản, phân phối đến nấu nướng cũng như sử dụng nhằm đảm

bảo cho thực phẩm đó được sạch sẽ, an toàn và phù hợp với điều kiện người tiêu

dùng.

2/ Cơ sở pháp lý:

Luật bảo vệ sức khỏe dân nhân, ban hành ngày 30/06/1989.

Thông tư số 4 hướng dẫn về việc thực hiện quản lí an toàn thực phẩm

trong kinh doanh. dịch vụ ăn uống, Bộ y tế ban hành ngày 23/03/1988.

Luật giáo dục căn cứ điều 18,19,20

“ Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em

phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu

tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một”.

“ Giáo dục mầm non phải đảm bảo hài hòa giữa môi trường, chăm sóc và

giáo dục, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý trẻ, giúp trẻ phát triển cân đối,

khỏe mạnh, nhanh nhẹn”.

3

Điều lệ trường mầm non ban do Bộ GD&ĐT ban hành.

Luật bảo vệ chăm sóc – giáo dục trẻ em ngày 12/08/1991.

B/ Thực trạng và một số biện pháp giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn

thực phẩm ở Trường Mầm non Yên Lập

1/ Khái niệm về tình hình nhà trường:

1.1/ Cơ sở vật chất:

Trường Mầm non Yên Lập nằm trên địa bàn huyện Yên Lập. Trường được

thành lập từ rất lâu cho đến nay trường có 9 lớp, trường sạch sẽ, thoáng mát phù

hợp với tâm sinh lý của trẻ, thu hút trẻ yêu thích đến trường. Có bếp ăn một

chiều, đảm bảo thực hiện theo đúng quy trình chế biến thức ăn. Ngoài ra trường

còn vận động phụ huynh trang bị được các phương tiện phục vụ nuôi dưỡng

thuận lợi cho giáo viên và cấp dưỡng tổ chức các bữa ăn cho trẻ.

1.2 /Đội ngũ Cán bộ – Giáo viên – Cấp dưỡng:

Ban giám hiệu nhà trường có trình độ đại học sư phạm mầm non, có năng

lực, được tiếp thu những chương trình mới về nội dung dinh dưỡng – chăm sóc –

giáo dục trẻ nên có nhiều thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ.

Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, đoàn kết, biết cầu tiến, nhiều sáng tạo, có

tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, mến trẻ, 100% có kiến thức về công tác

nuôi – dạy trẻ.

Cấp dưỡng rất nhiệt tình trong công tác, sạch sẽ, chịu khó, tận tâm với

công việc.

1.3/ Phụ huynh và trẻ:

Phần lớn phụ huynh đã được tuyên truyền về công tác chăm sóc, nuôi dạy

trẻ nên rất quan tâm đến việc ăn uống của trẻ tại trường và tại gia đình.

Với trẻ: Đầu năm đến trường tỷ lệ suy dinh dưỡng là 17,62%, cuối năm còn

8,3%.

2/ Những biện pháp trong công tác giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn

thực phẩm tại Trường Mầm non Yên Lập

2.1/ Xây dựng kế hoạch

Là một biện pháp rất quan trọng nó trở thành nghị quyết soi sáng xuyên

suốt trong cả năm học. Vì thế, việc đầu tiên tôi phải lên kế hoạch cụ thể cho năm

học, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần và từng ngày một cách nghiêm túc. Trong

quá trình thực hiện kế hoạch tôi luôn rà soát đối chiếu để tìm ra nguyên nhân rút

ra kinh nghiệm và kịp thời bổ sung vào kế hoạch đề làm tốt. Đồng thời tôi luôn

trao đổi với các đồng nghiệp, cấp dưỡng để đem lại thành công trong quá trình

thực hiện, làm tốt điều này sẽ giúp tôi làm việc có khoa học, chủ động, xử lý

nhanh và đạt năng xuất trong công tác.

2.2/ Quy trình xây dựng kế hoạch năm học:

* Chỉ tiêu cụ thể:

4

Từng năm học giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng vào giữa năm và cuối năm không

còn cháu suy dinh dưỡng ở kênh C.

100% trẻ đến trường được tiêm chủng đầy đủ, không để xảy ra dịch bệnh

trong trường

100% trẻ được khám sức khỏe định kì 2 lần/ năm.

Trên 50% trẻ được ăn tại trường.

100% trẻ được theo dõi biểu tăng trưởng.

100% các lớp có các góc tuyên truyền theo quy định.

100% trẻ được uống vaxcin, vitaminA.

* Xây dựng kế hoạch năm học

Để thực hiện tốt công tác giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm

tôi đưa ra các biện pháp:

Trường thực hiện tốt 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý:

10 lời khuyên về “ Vệ sinh an toàn thực phẩm ngăn ngừa ngộ độc” cũng

được đưa ra để nhà trường thực hiện.

Bảo quản thực phẩm ở nhiệt độ dưới 5 độ C

Lưu mẫu thức ăn hàng ngày ( bằng tủ lạnh)

Cấp dưỡng phải mặt tạp dề, đeo bao tay, đeo khẩu trang, đội mũ khi chế

biến và chia thức ăn cho trẻ.

Giáo viên phải mặc trang phục, đội ngũ, đeo khẩu trang, bao tay khi chia

thức ăn cho trẻ.

Tổ chức cho các cháu ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng.

Tuyên truyền đến các phụ huynh cho các cháu ăn uống các thức ăn có đầy

đủ các chất bổ dưỡng ( tại các góc tuyên truyền phụ huynh, trong các buổi họp

phụ huynh,…).

Thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng ở các độ tuổi 3, 4, 5 tuổi lồng

ghép trong các môn học, hoạt động vui chơi, bé tập làm nội trợ,…

Thực hiện khám sức khỏe, cân đo theo dõi biểu đồ theo định kì, từ đó phân

loại thể lực và đề ra biện pháp kết hợp nhắc nhở phụ huynh quan tâm chọn mua

thực phẩm đứng nhu cầu của mỗi cháu.

Họp phụ huynh có các cháu suy dinh dưỡng để có chế độ ăn thêm trái cây

và uống thêm sữa vào buổi tối, Giảm chất tinh bột và ăn thêm rau cho các cháu

béo phì.

Thức ăn phải được nấu chín để diệt các vi trùng có thể gây bệnh, nâng cao tỉ

lệ sử dụng các chất dinh dưỡng có trong thực phẩm.

Thực hiện tốt quy chế vệ sinh cá nhân, vệ sinh đồ dùng ăn uống.

Tăng cường cơ sở vật chất về vệ sinh và nâng cao kiến thức cho giáo viên

về vệ sinh phòng bệnh.

* Xây dựng thực đơn

Xây dựng khẩu phần thực đơn hợp lí cho bữa ăn của trẻ:

5

Tôi đã đóng vai trò của mình trong tinh thần trách nhiệm luôn chăm lo cho

các cháu. Vì ở lứa tuổi này trẻ em có rất nhiều nguy cơ bị suy dinh dưỡng, nếu

không được nhà trường quan tâm, vì nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng

của trẻ đang tuổi lớn và phát triển rất cao. Vì thế cần quan tâm chăm sóc năng

lượng và đủ chất để xây dựng có thể như chất đạm và chất khoáng. Ăn uống tốt

giúp trẻ phát triển và hoạt động bình thường cho tới lúc trưởng thành, đối với trẻ

đang yếu hoặc suy dinh dưỡng, trẻ biếng ăn, không ăn ngon chúng tôi cố gắng

tìm mọi cách động viên trẻ bằng cách thay đổi những món ăn trẻ ưa thích. Thực

đơn chúng tôi đưa ra thường linh động tùy thay đổi thực phẩm có ở thị trường

theo mùa, nên phù hợp với việc lựa chọn thực phẩm để trẻ dễ dùng được.

Bữa ăn đối với trẻ có ngon miệng, ăn hết xuất phụ thuộc rất nhiều vào các

món ăn phù hợp thời tiết và khí hậu.

Ví dụ: Mùa hè cho trẻ ăn các loại rau mát như: Rau muống, rau ngót, mướp,

rau đay, canh chua,…

Thực đơn phù hợp theo mùa tiện lợi về kinh tế, mùa nào thức ấy. Nhưng vẫn

phải đảm bảo calo một ngày ở trường của trẻ. Ở lứa tuổi này có thể nâng cao

món ăn hoặc cho các loại quả các cháu ưa thích nhưng tuyệt đối không cho trẻ ăn

bánh kẹo, uống nước ngọt trước khi ăn.

Trẻ đến trường không chỉ cần học tập, vui chơi mà chính là phải được chăm

sóc, nuôi dưỡng theo phương pháp khoa học nghĩa là phải tổ chức tốt bữa ăn cho

trẻ tại trường. Trường chúng tôi tổ chức cho trẻ ăn 2 bữa ăn/ ngày ( 1 bữa chính

và 1 bữa phụ)

2.3/ Chỉ đạo cấp dưỡng chế biến thực phẩm:

Ngoài các quy định của nhà trường cô tiếp phẩm phải nắm được thực đơn,

chuẩn bị lựa chọn thực phẩm, kiểm tra giá chợ trước ngày đi chợ 2 ngày để đảm

bảo chất lượng và đủ số lượng trẻ ăn hoặc kịp thời thay thế thực phẩm không có

trong thực đơn.

Cân, đo, đong, đếm tính gái cả theo số lượng nhận thực tế.

Thực phẩm không đủ chất dinh dưỡng kế toán không nhận hàng.

Gía cả không đúng theo dự trù trong thực đơn phải thông báo kịp thời cho

ban giám hiệu.

Ban giám hiệu thường xuyên theo dõi giá chợ, thường xuyên kiểm tra công

tác tiếp phẩm không để hiện tượng tiêu cực xảy ra trong công tác tiếp phẩm.

Cách nấu nướng và chế biến thực phẩm, đảm bảo thức ăn còn đầy đủ các

chất bổ dưỡng, không để lại bệnh tật gì cho ăn uống. Đề phòng thức ăn bị ô

nhiễm từ giai đoạn thức ăn sống, được nấu chín và đưa đến người sử dụng.

2.4/ Thông qua bữa ăn hàng ngày:

Giới thiệu món ăn là thói quen thường xuyên của giáo viên ở trường, nhưng

giới thiệu như thế nào để đảm bảo kiến thức, đảm bảo vệ sinh, không ảnh hưởng

tới giờ ăn của trẻ. Vì vậy, các câu hỏi của giáo viên chia ra thời điểm khác nhau,

6

các câu hỏi phải tùy thuộc vào các món ăn thực tế hàng ngày đã chọn theo mùa.

Các loại thức ăn trên giàu chất gì? tất cả các giáo viên trước mỗi bữa ăn đều phải

biết giáo dục cháu như vậy giờ ăn không bị nặng nề.

Vệ sinh ăn uống là một vấn đề quan trọng, vì thế giáo viên trò chuyện với

trẻ: Hằng ngày trước khi ăn các cháu có thói quen làm gị? (rửa tay) vì sao phải

rửa tay? Trong khi ăn có được dùng tay bốc thức ăn không? Vì sao? Nói chuyện

trong giờ ăn thì như thế nào?…..

Đối với các lớp có sự phân công sắp xếp công việc giữa các cô một cách hợp

lí, chuẩn bị trước bữa ăn, chăm sóc trẻ ăn, dọn vệ sinh sau khi ăn,…

Chuẩn bị bữa ăn của trẻ:

Bàn để chia thức ăn lau sạch. Tráng nước sôi dụng cụ để chia thức ăn và

chén muỗng của trẻ, cho trẻ rửa tay trước khi ăn.

Ngoài ra trước khi chia thức ăn phải rửa sạch tay, thức ăn chia xong phải

đậy kín hoặc để vào tủ đựng thức ăn để tránh ruồi, bụi,…

Chăm sóc trẻ trong bữa ăn:

Cho trẻ ăn phải thực hiện đứng quy chế vệ sinh: Cho trẻ ăn đúng bữa, đúng

giờ.

Cô rửa sạch tay trước khi chia thức ăn và cho trẻ ăn.

Trẻ ăn xong cô cho trẻ rửa tay, đánh răng, lau miệng, uống nước.

Cần tránh:

Không cho trẻ ăn, uống quá nóng

Không cho trẻ ăn quá nguội vào mùa đông

Không thổi vào thức ăn của trẻ.

Không cho trẻ ăn uống chung thìa, bát, ly. Không nhặt thìa rơi xuống đất

cho trẻ ăn lại.

Vệ sinh sau khi ăn:

Trẻ ăn xong cô thu dọn bàn ngay, lau bàn bằng khăn ướt, giạt khăn và phơi

khô khăn.

Lau nhà bằng nước thơm sau mỗi bữa ăn.

Rửa bát bằng ( nước xà phòng rửa chén). Tráng lại ít nhất 2 lần bằng nước

sạch, phơi nắng.

Trường chúng tôi có kế hoạch dự giờ chăm sóc về dinh dưỡng chặt chẽ,

nhằm nâng cao kết quả nuôi dưỡng trẻ, phòng chống suy dinh dưỡng và phòng

chống tình trạng ngộ độc thức ăn trong nhà trường.

2.5/ Thông qua góc chơi:

Trong quá trình thực hiện các chủ điểm đặc biệt là chủ điểm “Gia đình”,

chủ điểm “Thế giới động vật, thực vật” ở góc phân vai, giáo viên thường tập cho

các cháu giao tiếp trao đổi với nhau để chọn món, chọn thực phẩm và biết trong

thực phẩm đó giàu chất gì?. Dần dần các cháu đã thành thạo trong việc chọn món

7

ăn, chọn thực phẩm và cũng nói lên được các chất dinh dưỡng có trong các loại

thực phẩm đã chọn.

2.6/ Một vài hình thức khác:

Hiện nay toàn trường chúng tôi đang thực hiện chương trình giáo dục mầm

non mới. Chúng tôi chủ động đưa ra những nội dung gần gũi, giúp trẻ thích ứng

và xử lý các tình huống trong cuộc sống. Biết lao động tự phục vụ bản thân: Tự

mặc quần áo, tự chải đầu, tự mang dép,…

Thông qua các hoạt động vui chơi như “Bé tập làm nội trợ” trẻ đã biết chế

biến và bày các món ăn đơn giản như biết pha nước chanh, phết bơ vào bánh mì,

gắp trà bông, xịt nước chấm, giắt những cọng ngò, … hoạt động này nội dung

giáo dục dinh dưỡng được thực hiện một cách nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả.

Giáo viên dạy trẻ biết sử dụng các dụng cụ như dao, kéo, thớt, cốc, chén,…

Ngoài ra, còn có tranh liên hoàn, tranh treo tường qua các hình ảnh thực

phẩm được trẻ cắt dán phân loại các nhóm thực phẩm. Cháu được hoạt động bên

cô từ đó cô vừa giáo dục dinh dưỡng vừa cung cấp kiến thức về số lượng, làm

quen chữ viết cho trẻ. Song song đó trẻ ý thức được vệ sinh cá nhân, vệ sinh thực

phẩm.

2.7/ Phối hợp với phụ huynh:

Trẻ mẫu giáo rất dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên nên hàng ngày sau khi dạy

các kiến thức về dinh dưỡng, các giáo viên thường trao đổi với phụ huynh các

cháu về bài học ấy, nhờ phụ huynh nhắc nhở trẻ nhớ lâu, nhớ kĩ hơn.

Tổ chức cho phụ huynh tham quan bếp ăn, hướng dẫn cách chế biến thức

ăn, tham quan giờ ăn của trẻ cũng như tham quan bé làm nội trợ.

Ngoài ra các giờ đón trẻ và trả trẻ phụ huynh còn được tuyên truyền bằng

loa phát thanh nhà trường các nội dung chăm sóc giáo dục trẻ em, các hình thức

tuyên truyền còn được thể hiện trên bảng tin ở các lớp.

Qua việc tuyên truyền cho các bậc phụ huynh, kết quả về giáo dục dinh

dưỡng được nâng cao cụ thể:

Phụ huynh đã biết quan tâm sức khỏe của trẻ, hướng dẫn trẻ biết các thức

ăn cần thiết cho cơ thể.

Phổ biến công tác giáo dục dinh dưỡng và VSATTP trong các buổi họp

phụ huynh, qua các bảng tuyên truyền phụ huynh ở các lớp.

Phụ huynh rất quan tâm đến các hoạt động của nhà trường, hăng hái tham

gia cổ vũ cho các hội thi thêm vui, náo nhiệt. Đồng thời phụ huynh trở thành

những tuyên truyền viên tích cực và tự giác, phối hợp tốt với nhà trường trong

công tác giáo dục trẻ.

C/ Kết quả đạt được:

Sau 4 năm tổ chức bán trú và áp dụng những kinh nghiệm đã thực hiện về

chuyên đề “Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm” ở Trường Mầm

non Yên Lập đã được những kết quả sau:

8

Các cháu rất hứng thú tham gia cùng cô để nắm kiến thức về dinh dưỡng

đồng thời vốn từ của trẻ phong phú hơn.

Nâng cao nuôi dưỡng trẻ và chất lượng tay nghề của giáo viên. Các cháu

khỏe mạnh, thông minh, nhanh nhẹn…( đạt kết quả cao trong hội thi “ Bé khỏe,

bé ngoan” cấp huyện)

Nhà trường thành thạo trong việc tính khẩu phần ăn cho trẻ, biết xây dựng

thực đơn theo mùa, theo lứa tuổi, cho trẻ ăn đủ chất, cân đối giữa các chất, chế

biến các món ăn hợp khẩu vị cho trẻ, cho trẻ ăn đúng giờ.

50,44% trẻ được ăn ở trường.

100% trẻ được an toàn.

95% trẻ nhận biết tốt 4 nhóm thức ăn và món ăn thông thường.

100% trẻ có nề nếp, thói quen hành vi thông minh trong ăn uống như: chào

mời, tự phục vụ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống gọn gàng, sạch sẽ.

100% trẻ ăn hết suất, khi ăn không làm rơi vãi.

Các cháu trường tôi tăng cân đều, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm dưới 10%.

Các tiết dạy có lồng ghép dinh dưỡng, tổ chức các hoạt động, các trò chơi

đều được đánh gái tốt.

D/ Bài học kinh nghiệm:

Với những năm thực hiện công tác giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn

thực phẩm tại trường đã đạt được những thành tựu đáng kể về công tác giáo dục

nói chung, và giáo dục mầm non nói riêng, trong khi đó phải kể đến thành tích

trong công tác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Muốn nâng cao chất lượng giáo

dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt kết quả tốt là những

người quản lý chúng ta cần:

Biết xác định đuợc muc tiêu chủ yếu, đề ra kế hoạch theo chỉ tiêu giao.

Tìm biện pháp dựa trên cơ sở điều kiện thực tế của địa phương mình, tổ chức

đồng bộ một cách sáng tạo.

Kiên trì, chủ động, tìm ra mặt mạnh, mặt yếu để có hướng khắc phục, bồi

dưỡng nâng cao, làm chuyển biến nhận thức năng lực của giáo viên và trẻ.

Không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu một số vốn về kiến thức nhu cầu dinh

dưỡng cho trẻ qua đó việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ đạt kết quả cao.

Để tiếp thu kiến thức dinh dưỡng nhẹ nhàng, dễ hiểu, không gò bó cô giáo

cần khéo lồng nội dung giáo dục dinh dưỡng vào bài với nhiều hình thức phong

phú và sinh động.

Thường xuyên giới thiệu các món ăn, thực phẩm thông qua các bữa ăn hàng

ngày nhưng không hỏi trẻ quá nhiều, và phải đảm bảo vệ sinh khi ăn.

Giáo viên phải chịu khó tìm tòi, sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, vè, câu

đố, trò chơi mới hấp dẫn, phù hợp với lứa tuổi của trẻ nhằm tổ chức các hoạt

động lồng ghép hiệu quả.

9

Trên tiết dạy giáo viên lồng ghép nội dung dinh dưỡng vào các hoạt động

phải nhẹ nhàng, phù hợp và thật khéo léo để không ảnh hưởng đến nội dung

trọng tâm của tiết dạy. Nếu dạy trẻ bằng vật thật thì hiệu quả trên sẽ cao hơn.

Thông qua các góc chơi, trò chơi cô tham gia cùng cháu, cùng nấu nướng,

lựa chọn thực phẩm, trao đổi với trẻ về các chất dinh dưỡng có trong thực phẩm,



Bởi thế đòi hỏi cán bộ quản lý và giáo viên ngành mầm non phải yêu nghề,

mến trẻ, tâm đắc không ngừng nâng cao nghiệp vụ, kiên trì công tác chăm sóc

nuôi dạy trẻ. Luôn nhớ và tâm đắc câu nói của Bác Hồ để không làm gián đoạn

quá trình phát triển con người khi còn trẻ và theo độ tuổi được hoàn thiện hơn.

Đó là câu nói của Bác Hồ: “ Mười năm trồng cây, một trăm năm trồng người”.

Yên lập , ngày 18 tháng 3 năm 2013

Người viết

Xác nhận của BGH

Lê Thị Nga

10