Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ lớp …

1. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài

Mục tiêu của Giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.

Phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội là tiền đề quan trọng cho việc học tập và phát triển toàn diện của trẻ. Các năng lực tình cảm, kỹ năng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả học tập và phát triển toàn diện của trẻ em. Phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội là nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhận thức ở trẻ em cũng như khả năng tham gia hiệu quả vào các công việc nhóm hay trách nhiệm của trẻ với xã hội. Chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung giáo dục phát triển tình cảm kĩ năng xã hội rất đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như dạy trẻ ý thức về bản thân, nhận xét và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người, sự vật và hiện tượng xung quanh, những hành vi quy tắc ứng xử xã hội trong sinh hoạt ở gia đình, trường lớp mầm non, cộng đồng gần gũi, việc quan tâm bảo vệ  môi trường. Dạy trẻ kỹ năng hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày như vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lao động vừa sức, lễ hội tham quan…. Để có được tình cảm – kỹ năng xã hội thì trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè. Vì vậy, trách nhiệm của gia đình và nhà trường trong việc giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội cho thế hệ trẻ, thế hệ mầm non cần được toàn  xã hội quan tâm đúng mức. Việc cần làm ngay của các cô giáo mầm non hiện nay là giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội ngay từ khi trẻ bắt đầu đến trường, lớp mầm non. Xong hiện nay có tình trạng một số các bậc phụ huynh chiều con quá mức, cũng có phụ huynh do công việc bộn bề kiếm sống chưa quan tâm đến cách giáo dục con, còn về giáo viên thì một số giáo viên đã có những biện pháp tích cực để chăm sóc trẻ, song mới chỉ quan tâm và chú trọng đến  việc nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ mà chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng về nâng cao nhận thức giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non. Một số giáo viên chưa tận tâm, tận lực, chưa thể hiện rõ trách nhiệm trong việc nắm bắt và đánh giá đúng nhận thức của trẻ để xây dựng kế hoạch phát triển cho phù hợp, chưa đổi mới được phương pháp để giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ, các bậc phụ huynh chưa thật sự quan tâm để giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức cho trẻ, còn trẻ thì rụt rè nhút nhát chưa thể hiện, phát triển được tình cảm kỹ năng xã hội tốt vì thế trong năm học này tôi sẽ chú trọng tìm ra “Một số biện pháp giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1”có chất lượng hiệu quả.

1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

* Mục tiêu

Nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động, thực hiện tốt các hoạt động giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non.

Cung cấp nhiều cơ hội cho trẻ được giao tiếp, thực hành, trải nghiệm dưới nhiều hình thức cá nhân, nhóm nhỏ, tập thể lớp. Tận dụng mọi cơ hội, mọi tình huống, mọi thời điểm các hoạt động diễn ra trong trường, lớp, như vui chơi, học tập, lao động vừa sức, tham quan, lễ hội… trong sinh hoạt hàng ngày để hỗ trợ trẻ phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Tạo môi trường học tập tích cực, trong đó đảm bảo mọi trẻ đều được yêu thương, chăm sóc, được an toàn, ổn định và được đối xử công bằng.

* Nhiệm vụ

Tìm ra một số biện pháp giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. Xác định được các phương pháp giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1 trường mầm non Trường Giang phù hợp với đối tượng trẻ, với điều kiện của trường, lớp, địa phương, có tính khoa học, khả thi hiệu quả.   

1.3. Đối tượng nghiên cứu

 Một số biện pháp, các hoạt động giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.

Học sinh lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1 trường Mầm non Trường Giang.

  1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Một số các biện pháp giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội phù hợp, hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi, lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1 trường Mầm non Trường Giang.

Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2018 đến tháng 5 năm 2019. Năm học 2018 – 2019.

          1.5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu lí luận, phân tích, phân loại hệ thống hóa lí thuyết, giả thuyết, chứng minh.

Nghiên cứu thực tiễn, dùng tình cảm, làm mẫu nêu gương, trò chơi, đàm thoại, trò chuyện với trẻ, dùng tác phẩm nghệ thuật, luyện tập hành vi ứng xử thường xuyên, khuyến khích động viên, thực hành trải nghiệm.

2. PHẦN NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận

Tình cảm là những thái độ thể hiện sự dung cảm ổn định của con người đối với những sự vật hiện tượng, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên quan với nhu cầu và động cơ cá nhân tình cảm là sản phẩm cấp cao của sự phát triển các quá trình cảm xúc trong điều kiện xã hội.

Theo PaulEkman con người có 7 cảm xúc cơ bản: Vui, buồn, tức giận, ngạc nhiên, sợ hãi, ghê tởm, khinh bỉ. Ngoài những cảm xúc cơ bản, con người cũng trải nghiệm những cảm xúc khác như:  Xấu hổ, bối rối, ghen tị, tự hào, thất vọng, hối tiếc… được gọi là những cảm xúc xã hội. Những cảm xúc này liên quan đến sự đánh giá hành vi của con người là tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực và khả năng nhìn nhận về bản thân trong mối quan hệ với người khác, ảnh hưởng tới cách nghĩ hoặc đánh giá về bản thân mỗi con người. Kỹ năng xã hội là một dạng hành động nhằm thực hiện các mối quan hệ của cá nhân với mọi người xung quanh trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm xã hội phù hợp với điều kiện hoàn cảnh. Là một tập hợp các kỹ năng giúp con người giao tiếp, tương tác, thích nghi, hòa nhập với xã hội, được những người xung quanh chấp nhận và là một phần trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.

Nội dung giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội được tích hợp lồng ghép trong tất cả các hoạt động, từ hoạt động học tập đến hoạt động vui chơi, hoạt động ngoài trời, hoạt động lao động… và được xuyên suốt các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày, được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi thời điểm, mọi tình huống. Khi đến trường mầm non chúng ta quan sát trẻ trong các nhóm, lớp thì sẽ thấy; trẻ được giao tiếp với cô giáo với các bạn trong lớp,  trẻ thao tác với các phương tiện học tập, được sử dụng các đồ dùng, đồ chơi… đây là nơi để trẻ chia sẻ những ý tưởng, những nhu cầu, sự lo lắng và cả những xung đột bất hòa.

2.2. Thực trạng

Năm học 2018 – 2019 bản thân tôi trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo  4 – 5 tuổi A1 với tổng số học sinh là 25 cháu. Tôi nghiên cứu đề tài để áp dụng thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội lớp tôi được tốt hơn.

   a. Thuận lợi – khó khăn

* Thuận lợi

Hoạt động của lớp được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của Ban giám hiệu nhà trường. Lớp được đầu tư trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ để phục vụ cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

* Khó khăn

Đa số trẻ thuộc gia đình ở nông thôn nhút nhát, thụ động, không tự tin trong các hoạt động học hoặc khi chơi cùng với nhóm. Một số cháu còn hiếu động, bản tính rất cá biệt chưa hòa mình vào tập thể, chưa thể hiện hành vi có văn hóa trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày.

Còn có một số phụ huynh cho rằng, trẻ quá nhỏ chưa cần phải học nhiều, chỉ cần đến lớp vui chơi với bạn và được cô chăm sóc, cho ăn uống là đủ, nhiều trẻ 5 – 6 tuổi vẫn được bố, mẹ nuông chiều chăm sóc từ việc cho ăn, cho uống đến mặc quần áo, vệ sinh cá nhân … có trẻ thể hiện những hành vi ứng xử chưa phù hợp với xã hội nhưng phụ huynh không quan tâm, buông lỏng, chiều theo sở thích cá nhân của trẻ.

b. Thành công – hạn chế

* Thành công

Lớp tổ chức các hoạt động trải nghiệm về các ngày hội, ngày lễ, các hoạt động học được tích hợp các nội dung phát triển tình cảm kỹ năng xã hội.

Học sinh tham gia vào các hoạt động.

Bản thân luôn học tập kinh nghiệm tổ chức các hoạt động, tích hợp nội dung giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội trên lớp thường xuyên.

Được đồng nghiệp hỗ trợ, ủng hộ trọng việc cùng tìm hiểu một số biện pháp và tổ chức các hoạt động.

           Phụ huynh đa số đã quan tâm đến việc học của con em mình đã cùng giáo viên trao đổi thống nhất tìm ra biện pháp để giáo dục từng đối tượng trẻ.

 * Hạn chế

           Trẻ nhút nhát nên việc tiếp thu chậm, một số trẻ tham gia học và chơi chưa tích cực.

Bản thân đôi khi còn dùng mệnh lệnh, nội dung giáo dục phát triển tình cảm- kỹ năng xã hội còn theo cảm tính của bản thân và chưa đầu tư thời gian để nghiên cứu đổi mới phương  pháp hỗ trợ trẻ phát triển tình cảm – kỹ năng xã hội được tốt.

Môi trường xã hội xung quanh trẻ có nhiều tác động xấu đến trẻ, nhiều tranh ảnh, phim truyện có nội dung không lành mạnh tác động đến trẻ làm cho trẻ có những hành vi không tốt với những người xung quanh.

c. Mặt mạnh – mặt yếu, nguyên nhân

* Mặt mạnh

          Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đã tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của việc phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ trong trường mầm non.

          Luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.

          Cơ sở trang thiết bị được các cấp ban nghành đoàn thể rất quan tâm, vào những năm tiếp theo sẽ được đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ hơn nữa.

* Mặt yếu

Khi dạy trẻ về nội dung phát triển tình cảm kỹ năng xã hội đôi khi còn chưa định hướng được các biện pháp mục đích, nhiệm vụ mình cần làm, song cũng chưa phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc tổ chức một số các hoạt động tích hợp nội dung phát triển tình cảm kỹ năng xã hội…nên kết quả chưa được cao.

Đa số học sinh là người nông thôn đường xá đi lại khó khăn nên việc đi học không đều.

          * Nguyên nhân

          Dân cư thưa thớt, không tập trung, đường xá còn một số nơi còn đi lại khó khăn phải qua ruộng đồi. Đa số người dân địa phương làm nghề nông hoặc đi làm ăn xa nên không có điều kiện đưa con đi học. Trẻ còn nhút nhát nhiều trẻ ít nói nên các con đến lớp chưa tự tin và chưa được gọn gàng một số trẻ không được sạch sẽ.

         Một số các phụ huynh chưa xác định được lợi ích của việc phát triển tình cảm kỹ năng xã hội ảnh hưởng như thế nào đến con em mình. Sự tiếp xúc với cách sống văn minh, văn hóa ít, kiến thức về chăm sóc cũng như kỹ năng nuôi dạy còn hạn chế.

d. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra

Giáo dục tình cảm – kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có những tình cảm, những chuẩn mực đạo đức, những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Giúp trẻ tự lập, tự tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống. Tạo cơ hội cho trẻ vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn gần gũi với đời sống hàng ngày của trẻ. Xong tôi nhận thấy trẻ có kiến thức, kỹ năng về lĩnh vực tình cảm, kỹ năng xã hội lớp tôi chưa đạt yêu cầu. Đa số trẻ chưa biết chưa có thái độ đúng đắn với cô giáo, bạn bè và những người xung quanh. trẻ nói không đủ câu còn diễn ra thường xuyên, nhiều trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin, chưa kiểm soát được cảm xúc của mình, chưa hiểu cảm xúc của người khác để đáp lại cảm xúc phù hợp. Nhiều trẻ chưa có kỹ năng xã hội như sự hợp tác, tự điều chỉnh cảm xúc của mình, sự tương tác, tự lập, giao tiếp, sự thấu hiểu và chia sẻ với bạn chưa có. Nhiều trẻ còn nói leo, chưa biết lắng nghe, chưa biết trình bày ý kiến của mình trong nhóm bạn bè, chưa điều chỉnh, kiểm soát các hành vi của bản thân với mọi người, chưa hiểu và tuân thủ những quy tắc xã hội.

* Kết quả khảo sát thực tế trẻ lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1 tại thời điểm tháng 9/2018.

             Tổng số trẻ được điều tra 25 trẻ.

Trẻ có ý thức về bản thân: Biết tên, tuổi, giới tính, sở thích, khả năng của bản thân đạt 50%.

Trẻ nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người, sự vật và hiện tượng xung quanh đạt 30%.

Trẻ có hành vi và quy tắc ứng xử xã hội trong sinh hoạt ở gia đình, trường

lớp mầm non, cộng đồng gần gũi đạt 35%.

Trẻ biết quan tâm và bảo vệ môi trường đạt 38%.

           Nề nếp, thói quen trong học tập, trong ăn uống còn nhiều hạn chế. Căn cứ vào kết quả khảo sát trên tôi đã tiến hành nghiên cứu một số phương pháp giáo dục trẻ phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội như sau:

2.3 Giải pháp, biện pháp

2.3.1. Nâng cao nhận thức cho bản thân.

Ngay từ đầu năm học tôi đã nghiên cứu tìm hiểm về đổi mới phương pháp giáo dục phát triển tình cảm xã hội cho trẻ, qua các tài liệu mầm non, sách hướng dẫn, tạp chí, trên mạng: việc xây dựng môi trường giáo dục, công tác phối hợp với gia đình và cộng đồng về giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ. Tôi xác định rõ những kỹ năng cơ bản giúp trẻ có thể phát triển tốt tình cảm và kỹ năng xã hội. Bản thân tự bồi dưỡng về phương pháp giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ, nắm bắt những kỹ năng cơ bản để có những biện pháp hỗ trợ cho từng trẻ trong nhóm lớp, vì mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt và sống trong môi trường gia đình khác nhau, trình độ văn hóa cũng khác nhau… những yếu tố môi trường sẽ tác động rất lớn đến sự phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội của từng trẻ, phương pháp hỗ trợ cho trẻ phát triển tình cảm kỹ năng xã hội là rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy mà bản thân luôn tự học hỏi và nghiên cứu các phương pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả.

          2.3.2. Xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ  theo chế độ sinh hoạt hàng ngày.

          Trước khi xây dựng kế hoạch, tôi căn cứ vào mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi trong lĩnh vực phát triển tình cảm kỹ năng xã hội của chương trình giáo dục mầm non về cơ sở vật chất của lớp, kinh tế, văn hóa, xã hội của gia đình, nhà trường, địa phương, khả năng, kinh nghiệm của trẻ. Cụ thể là tôi quan sát, theo dõi, tìm hiểu, để hiểu tâm sinh lý từng trẻ thông qua các hoạt động chơi, hoạt động học, và các hoạt động khác trong ngày, sau đó ghi chép đánh giá sự phát triển của từng trẻ. Căn cứ vào kết quả đánh giá tôi áp dụng phương pháp phân loại, phân

 trẻ thành từng nhóm.

          Ví dụ: Những trẻ phát triển chậm về mặt tình cảm vào một nhóm; những trẻ phát triển chậm về kỹ năng xã hội vào một nhóm; những trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt, ứng xử nhanh vào một nhóm… Từ đó xác định nội dung hỗ trợ cho từng trẻ trong các nhóm vào những hoạt động cụ thể. Nội dung giáo dục tình cảm kỹ năng, xã hội được tích hợp vào các hoạt động như sau:

          Giờ đón trẻ, thể dục sáng: Tôi rèn cho trẻ thói quen chào cô và các bạn khi tới lớp, chào tạm biệt và chúc bố mẹ một ngày vui/ngày làm việc tốt. Nhắc trẻ tự mình cất giày dép, áo khoác và đồ dùng đúng nơi quy định của lớp. Khen ngợi những biểu hiện tốt của trẻ, nhắc nhở những biểu hiện chưa đúng (lời nói, hành vi, thái độ của trẻ) và giúp trẻ biết cách làm đúng nếu cần.

           Tổ chức cho trẻ thể dục sáng và điểm danh, rèn trẻ thực hiện các yêu cầu về tính kỷ luật, tuân theo các hướng dẫn, tín hiệu, hiệu lệnh.

            Tổ chức trò chuyện đầu giờ, tôi lựa chọn nội dung giáo dục tình cảm, kỹ năng xã hội phù hợp để đưa vào trò chuyện đầu giờ.

            Ví dụ: như chủ điểm trường mầm non trò chuyện về trường, lớp, cô giáo, bạn bè, tên trường/lớp, địa điểm. Trong trường có những ai, họ làm công việc gì? Những đồ dùng, đồ chơi trong lớp, cảnh đẹp trong trường. Tên cô giáo, tên các bạn, đặc điểm bên ngoài, tính cách, giới tính, sở thích và khả năng của các bạn. Trò chuyện thảo luận về quy định của lớp (làm gì để lớp mình sạch, đẹp..). Trò chuyện hôm nay lớp mình có điều gì mới. Trẻ quan sát lẫn nhau, quan sát lớp để phát hiện những điểm mới lạ và chia sẻ cho nhau. Trò chuyện về cách thể hiện cảm xúc, những biểu hiện cảm xúc những việc nên và không nên làm trong giao tiếp với mọi người.

           Giờ hoạt động học: Thảo luận/đọc hoặc kể chuyện về sự rụt rè/ nhút nhát, về cảm giác khi ở một mình, khi có bạn, khi cùng chơi với bạn. Chia trẻ thành những nhóm nhỏ và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm làm một bức tranh để trang trí.   Ví dụ: hoạt động khám phá xã hội “tìm hiểu nghề Bác sỹ” phần chơi trò chơi trẻ quan sát tranh và chọn mặt thể hiện cảm xúc. Mặt cười vui là đúng, mặt buồn mếu là sai..vv

VD: Qua giờ khám phá khoa học “Cây xanh và môi trường sống”. Cô giáo có thể đàm thoại: Cây xanh để làm gì? Cây xanh có ích lợi như thế nào? Muốn có nhiều cây xanh chúng ta phải làm gì? Qua lợi ích của cây xanh, cô giáo dục cháu không ngắt ngọn bẻ cành, mà phải biết bảo vệ chăm sóc cây xanh để cây cho ta nhiều lợi ích.

         Giờ học phát triển vận động: Cô giáo dục trẻ siêng năng thể dục, tập đều đặn giúp cơ thể khoẻ mạnh, trong lúc tập các con không chen lấn, không xô đẩy nhau.

          Giờ học tạo hình: “Vẽ người thân trong gia đình”. Cô có thể đàm thoại. Gia đình cháu gồm có những ai? Gia đình cháu thuộc gia đình nhỏ hay gia đình lớn? Mọi người sống trong gia đình phải như thế nào với nhau? Giáo dục trẻ biết yêu thương, kính trọng đối với ông bà, cha mẹ, anh chị, biết nhường nhịn em bé.

          Giờ học Làm quen chữ cái: Nhắc nhở cháu ngồi ngay ngắn, cất đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp, biết giữ  gìn bảo quản đồ dùng.

           Giờ làm quen văn học: Qua truyện “Tấm Cám”.Cô đàm thoại cùng trẻ:

Tấm là người như thế nào? Mẹ con Cám là người như thế nào? Con thích nhân vật nào nhất? Vì sao? Cô giáo dục cháu lòng thật thà, chăm lo lao động, dạy cháu yêu cái thiện, ghét cái ác, hình thành cho trẻ lòng nhân ái đối với mọi người xung quanh; Hay truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ”, Cô hỏi: Các con yêu thích nhân vật nào trong chuyện kể? Vì sao? Qua chuyện kể “Bác gấu đen và hai chú thỏ” cháu phải biết quan tâm yêu thương và giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, biết nhận lỗi khi mình phạm sai lầm. Sau cuối tiết học tôi đã tạo một “tình huống” cho trẻ đó là cung cấp nhiều khối hộp to cho hai nhóm trẻ để trẻ cùng nhau “hợp tác” xây hoàn thành ngôi nhà cho thỏ sớm nhất và đẹp nhất. Nhóm có tình cảm yêu thương biết chia sẻ và có tinh thần “hợp tác ” tốt sẽ được tuyên dương. 

         Giờ học âm nhạc: Bài “Bông hoa Mừng Cô”.Đàm thoại: Đối với cô giáo các con phải như thế nào? Khi tặng hoa cho cô, các con tặng bằng mấy tay? Thông qua đó giáo dục trẻ khi nhận hoặc trao vật gì với người lớn nên trao hoặc nhận phải bằng hai tay, khi nhận các con nói lời cảm ơn.

             Sau một thời gian thực hiện những thói quen về lễ giáo chất lượng lớp tôi tăng lên rõ rệt, trẻ biết chào hỏi, thưa trình, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu mến cô giáo, đoàn kết với bạn bè, lễ phép với người trên.

            Giờ hoạt động ngoài trời: Hoạt động nhóm “làm sạch đẹp sân trường”. Chia trẻ thành những nhóm nhỏ cho cả lớp đi tham quan sân trường cùng chỉ ra những việc cần làm để sân trường đẹp hơn. Tạo tình huống cô bị trượt chân ngã, qua đó giáo dục trẻ về sự quan tâm, cách xử lý khi có người bị thương, cách đi để không bị trượt ngã.

          Giờ hoạt động vui chơi ở các góc; Góc đóng vai trò chơi gia đình, Bác sỹ, bán hàng; Ví dụ: Bác sĩ biết thăm hỏi bệnh nhân ân cần, xưng hô, cô, chú, bác, cháu đau chỗ nào? Đau ra sao? Y tá phát thuốc dặn bệnh nhân uống thuốc ngày mấy lần, bệnh nhân nhận thuốc, nhận đơn thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn đối với cô y tá, bác sĩ.

          Ví dụ: Trẻ chơi bán hàng:  Người bán hàng: Cô, chú mua gì ạ?

Người mua: Bao nhiêu tiền một đôi dép ạ? Qua hoạt động vui chơi cháu mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp, trong ứng xử, chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình.

                                                                                        (Ảnh trẻ chơi làm bác sỹ)

 

         Góc khám phá TC tìm sợ khác nhau giữa các bạn; Góc xây dưng TC xây trường mầm non; Góc thiên nhiên TC chăm sóc cây xanh; Góc nghệ thuật làm dây hoa, cờ trang trí lớp. Tôi quan sát và tham gia vào trò chơi với tư cách như một vai chơi, giúp trẻ rèn luyện về các kỹ năng xã hội, kỹ năng thể hiện tình cảm phù hợp, kiểm soát cảm xúc, giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh.

           Giờ ăn trưa: Tổ chức tốt các bước của việc tổ chức bữa ăn và cho trẻ thực hiện nghiêm túc các yêu cầu ở từng bước.

          Giờ hoạt động chiều: Trò chuyện, thảo luận về cách thể hiện cảm xúc tiêu cực, tức giận, thất vọng. Ví dụ: Trong hoạt động chiều cho trẻ chơi với các tấm thẻ. Cô trải các tấm thẻ thể hiện cảm xúc của các bác gấu ra sàn và yêu cầu trẻ lựa chọn tấm thẻ bác gấu đang vui, đang buồn, đang tức giận.. cho trẻ chơi thể hiện cảm xúc cùng bác gấu, trẻ nào nhận được tấm thẻ buồn thì thể hiện cảm xúc buồn…hay cho trẻ chơi nhìn thẻ để đoán cảm xúc, phân loại cảm xúc.

       2.3.3. Phối hợp gia đình trong giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non.

       Kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa nhà trường và gia đình. Tôi luôn lắng nghe những ý kiến của các bậc cha mẹ  và từ đó giúp cho các bậc cha mẹ cách giáo dục lễ giáo cho trẻ đúng đắn, phù hợp hơn. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình cảm của trẻ để kết hợp giáo dục trẻ ở nhà tốt hơn và đồng bộ như ở trường. Mặt khác còn kết hợp với phụ huynh trong việc sưu tầm tài liệu, tranh ảnh về giáo dục lễ giáo và trong phong trào sáng tác thơ, nhạc, tiểu phẩm có nội dung giáo dục lễ giáo. Tôi luôn trao đổi với phụ huynh thông báo về một số thông tin của trẻ ở trường như ở lớp con rất ngoan song cháu còn nhút nhát, ít tham gia các hoạt động chung của lớp…và trao đổi với cha, mẹ trẻ về một số thông tin của trẻ ở gia đình Ví dụ: Ở nhà con có hay chơi với anh/chị không, với hàng xóm không? Con làm được gì đơn giản để giúp đỡ cha mẹ và định hướng trao đổi với phụ huynh để phối hợp giáo dục các cháu như; về nhà anh/chị nên khuyến khích con làm những việc đơn giản giúp đỡ cha, mẹ, biết quan tâm, hỏi han khi bố, mẹ bị ốm, mệt..vv:

          2.3.4.Giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội thông qua ngày hội, ngày lễ.

         Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội như Tết Trung thu, ngày 20/11, tết Nguyên đán, lễ hội làng… Từ ý nghĩa của những ngày lễ lớn, tôi đã tổ chức các hoạt động văn nghệ để chào mừng, đồng thời ôn lại truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết kính trọng những người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người. Nhằm hình thành cho trẻ lòng tự hào, kính yêu đối với người lớn tuổi, thông qua đó khuyến khích trẻ học tập và phấn đấu thành con người có ích cho xã hội.

        2.3.5. Xây dựng môi trường giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non.

       Tạo môi trường cơ sở vật chất: Trong nhóm lớp tôi bố trí không gian để sắp xếp các góc chơi cho trẻ phù hợp, thuận tiện, đồ dùng đồ chơi để nơi dễ lấy, dễ thấy, dễ tìm và phải thuận tiện cho việc đi lại. Không gian đủ diện tích cho mọi trẻ được giao tiếp và qua lại giữa các nhóm chơi với nhau. Đồ dùng đồ chơi trong các góc cần đa dạng, mang tính mở. Đồ dùng đồ chơi bố trí ở các góc chơi luôn được bổ sung, luân chuyển và đổi mới tạo cho trẻ sự hấp dẫn, khích thích trẻ hoạt động tích cực, mở rộng nội dung chơi, các quan hệ giao tiếp (trẻ được thực hành, luyện tập cách ứng xử trong giao tiếp). Tôi luôn bổ sung thêm đồ chơi trong các góc theo từng chủ đề để tạo sự tò mò, khám phá của trẻ, kích thích trẻ tích cực giao tiếp với nhau, tạo cho trẻ nhiều cơ hội hợp tác với bạn, giúp đỡ bạn khi bạn cần; tạo tình huống để trẻ học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau.  

 

 

          Tạo môi trường xã hội tôi luôn tạo mối quan hệ thân thiện, gần gũi, yêu thương với trẻ, trẻ thường xuyên được giao tiếp, môi trường lớp học không có bạo lực, la mắng hay xúc phạm trẻ. Khi trẻ cảm thấy an toàn trong môi trường của mình, trẻ sẽ mong muốn khám phá và tiếp cận những trải nghiệm cũng như những kiến thức mới; môi trường học tập an toàn là nơi mà trẻ không bị lạm dụng thể chất và lời nói. Luôn tôn trọng trẻ, tạo điều kiện cho trẻ tự khẳng định bản thân (khuyến khích trẻ tham gia hợp tác cùng phát triển). Tôn trọng gia đình trẻ, không phân biệt dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa gia đình. Đối xử công bằng với mỗi trẻ. Thái độ của cô với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo.

Luôn tạo cho trẻ niềm vui xuyên suốt trong tất cả các hoạt động trong ngày, từ hoạt động học, đến hoạt động chơi, hoạt động ngoài trời hay mọi lúc mọi nơi. Tôi đưa ra các câu hỏi mở hướng sự chú ý của trẻ tới mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người và những mẫu hành vi đúng, đẹp cũng như các ứng xử giữa con người với con người mà trẻ đã được nghe và quan sát. Đồng thời hướng dẫn tạo điều kiện cho trẻ liên hệ bản thân với bạn, với người thân trong cuộc sống hàng ngày. Tăng cường các hoạt động giao tiếp, giao lưu cảm xúc giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với cô giáo và giữa trẻ với những người xung quanh, đây chính là điều kiện để giúp trẻ tự tin thiết lập sự gắn bó và hình thành các mối quan hệ xã hội.

          2.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm nghiên, đánh giá

           Qua quá trình giáo dục lễ giáo ở nhà trường phối hợp sự giáo dục lễ giáo cho trẻ ở gia đình kết quả được nâng lên và có sự chuyển biến rõ rệt cụ thể. Từ những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện, chất lượng giáo dục về lễ giáo của lớp tôi tăng lên rõ rệt đó là điều làm tôi phấn khởi, yêu nghề, yêu trẻ càng nhiều. Giúp tôi có nghị lực trong công tác. Trẻ biết chào hỏi lễ phép, xưng hô với bạn với cô phù hợp. Trong các giờ vui chơi trẻ biết chơi cùng bạn, nhường nhịn bạn khi chơi, cất và sắp xếp đồ chơi gọn gàng. Trẻ mạnh dạn giao tiếp với cô với bạn, có thói quen tốt trong học tập ,trong giờ ăn, giờ ngủ trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những thói quen vệ sinh văn minh, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm đến mọi người và cảnh vật xung quanh.

Trẻ có ý thức về bản thân: Biết tên, tuổi, giới tính, sở thích, khả năng của bản thân 25/25 đạt 100% tăng so với đầu năm là 30%.

Trẻ nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người, sự vật và hiện tượng xung quanh 23/25 đạt   % tăng so với đầu năm là 46%.

Trẻ có hành vi và quy tắc ứng xử xã hội trong sinh hoạt ở gia đình, trường lớp mầm non, cộng đồng gần gũi 23/25 đạt  % tăng so với đầu năm là 49%.

Trẻ biết quan tâm và bảo vệ môi trường 25/25 đạt 100% tăng so với đầu năm là 49%.

3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận

          Từ những biện pháp đã áp dụng tôi đã rút ra nhiều bài học bổ ích cho bản thân là lồng ghép tích hợp giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội vào các hoạt động học học để dạy trẻ mọi nơi mọi lúc. Giáo viên phải nắm chắc các yếu tố tâm sinh lý của trẻ trên cơ sở đó có biện pháp giáo dục cụ thể và kịp thời khắc phục những thiếu sót của trẻ.

         Kết hợp chặc chẽ giữa giáo viên, nhà trường và gia đình .Thường xuyên trao đổi về tình hình thực tại của trẻ và thông báo với phụ huynh về nội dung giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ để thống nhất giáo dục trẻ. Kết hợp với phụ huynh sưu tầm sáng tác các bài thơ, bài hát hoặc các bức tranh có nội dung giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội.

Cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng để trẻ noi theo, luôn giàu tình yêu thương, luôn thận trọng trong mọi hành vi của mình, thân thiện yêu thương để tạo tâm lý thoải mái cho trẻ thực hiện tốt mọi hành vi cũng như hoạt động giao tiếp, nhằm giúp trẻ từng bước hình thành nhân cách cho trẻ. Bên cạnh đó môi trường và cảnh quan sư phạm cũng góp phần hình thành cho trẻ những hành vi văn minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của truyền thống con người Việt Nam phù hợp với mọi chuẩn mực đạo đức xã hội một cách tự nguyện. Cô phải luôn tìm tòi sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh, thơ ca, hò vè có nội dung giáo dục về phát triển tình cảm kỹ năng xã hội.

3.2. Kiến nghị

           Với nhà trường tăng cường công tác bồi dưỡng cho giáo viên nội dung về giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội, việc lồng ghép các nội dung giáo dục vào các hoạt động trên lớp.

Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để tổ chức các hoạt động giáo dục phát tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ vui chơi, múa hát xem phim, kể chuyện, xem tranh ảnh có nội dung giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội trong các hoạt động của trường, lớp mầm non.

Kết hợp với phụ huynh sưu tập sáng tác các bài thơ, bài hát hoặc các bức tranh có nội dung giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội.

          Trên đây là một số biện pháp về giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ, tôi đã áp dụng thực hiện trong năm học 2018 – 2019 tại lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi A1 trường mầm non Trường Giang và đã gặt hái được một số kết quả thiết thực. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn bè đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn.

                                                                                     Tôi xin trân trọng cảm ơn

                                                                                                                                 Trường Giang, ngày 06 tháng 2 năm 2020

                                                                                                                                                              Người viết

   

 

                                                                                                                                                    Nguyễn Thị Khen