Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi

Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu “Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

rẻ có nhiều cơ hội được làm việc thì bé mới có kĩ năng. Không nên có suy nghĩ đợi trẻ lớn mới dạy, thậm chí có thể dạy bé từ lúc 16 tháng, đừng sợ con làm hư hay làm vỡ mà làm thay.
Ảnh: Trẻ có kĩ năng tự phục vụ những việc vừa sức của mình
3.4. Biện pháp4: Đặt mục tiêu hướng dẫn và rèn luyện những kĩ năng cần thiết.
 Tôi hướng dẫn các cháu phát triển một số kĩ năng bổ trợ nhằm giúp trẻ phát triển hoàn thiện và có khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh thực tế như:
- Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân .
- Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự bảo vệ .
- Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự thích nghi.
- Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng khéo léo, kiên trì.
3.4.1- Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân .
 Việc trẻ tự chăm sóc mình là viên gạch đầu tiên xây nên tính tự tin, tự lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ : Trẻ biết cách sắp quần áo thì sau này trẻ rễ áp dụng vào việc xếp sách vở, đồ dùng đi học, khi đi làm trẻ sẽ sắp xếp công việc tốt hơn.
Ảnh: Trẻ có kĩ năng gấp quần áo, gấp khăn
 Nếu trẻ không biết đi giày ,không biết mặc áo cho chính mình thì trẻ cũng không biết làm điều đó với người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc mình, ngoài việc tốt cho bản thân trẻ , trẻ tự chăm sóc bản thân mình cũng là cách giúp đỡ những người trong gia đìnhTrẻ không tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận được sự vất vả khi làm việc gì không thông cảm thấu hiểu thì không có sự chia sẻ gắn bó với những tình cảm mà người khác đã giành cho mình.
 Tự nhặt đồ chơi , Tự cởi mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, đánh răng , tự đi dép chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang ra ngoài, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang. 
 Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn tự chăm sóc bản thân chính vì tôi chỉ cần khuyến khích động viên trẻ trong những buổi học đầu tiên đã làm trẻ có hứng thú với việc tự phục vụ cho bản thân mình.
 Ngay từ đầu tiên đến trường , tôi hướng dẫn trẻ cách mặc quần áo,gấp áo, cất đồ đúng nơi quy định. 
Công việc này cần phải có thời gian đòi hỏi giáo viên phải kiên nhẫn, nhờ vậy mà sau gần 1 tháng trẻ hình thành thói quen trong việc tự chăm sóc bản thân mình.
Ảnh: Trẻ có kĩ năng cài cúc áo, đi giầy
Ảnh: Trẻ có kĩ năng đội mũ ,Trẻ có kĩ năng đeo kính,đeo khẩu trang
Ảnh: Trẻ có kĩ năng đeo gang tay
 Tự cho quần áo bẩn vào máy giặt, lau nước trên sàn, gạt nước sau khi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi, bỏ rác đúng nơi quy định. 
Tôi hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân như : Rửa tay, rửa mặt đánh răng, dạy trẻ cách an toàn thực hiện vệ sinh cá nhân thông qua câu chuyện hoạt động cá nhân trênlớp. 
Ảnh : Trẻ lau nước trên sàn nhà, Trẻ vứt rác đúng nơi quy định
Kĩ năng hỗ trợ người khác: Bật ti vi, bật quạt, lấy bát ăn cơm, lấy ly uống nước cất dép đúng nơi quy định, xách phụ đồ, tưới cây nhặt cỏ, lau bàn gấp chăn, cất gối, dọn dẹp bàn khi ăn xong 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng chia đĩa, nhặt cỏ
Ảnh: Trẻ có kĩ năng cất dép,giày, cất đồ dùng đúng nơi quy định
3.4.2 Hướng dẫn trẻ kĩ năng tự bảo vệ 
Để cho các con có kĩ năng tự phục vụ mình tốt hơn con phải có kĩ năng tự bảo vệ .
3.4.2.1. Kĩ năng tự nhận biết nguy hiểm.
 Dạy trẻ cách nhận biết đồng thời hành động với những hành động đúng và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống các mối nguy hiểm trong nhà như ga, bàn ủi, điện, nước nóng, dao kéo. Các mối nguy hiểm ngoài xã hội : Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường. Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, kẹt cầu thang, chó cắn, ong đốt, ngộ độc. Các mối nguy hiểm về môi trường: Động đất, lũ lụt, bị xa vào vùng lầy ,sông nước.
3.4.2.2. Kĩ năng tự xoay sở
 Không phải những vấn đề trong cuộc sống được giải quyết một cách dễ dàng và bạn phải truyền đạt cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh giải quyết vấn đề. Khi trẻ gặp vấn đề nào đấy tôi không thay trẻ giải quyết vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc phải làm như thế tôi giúp các con tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này sẽ thể hiện sự tin tưởng của mình đối với trẻ có khả năng tự giải quyết vấn đề. Những việc hằng ngày tôi làm luôn nhằm khuyến khích kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên. Tôi chỉ là chỗ dựa cho học sinh của tôi chứ không phải là người giải quyết vấn đề cho các con.
3.4.3 Hướng dẫn trẻ kĩ năng thích nghi.
 Thích nghi là một kĩ năng sống quan trọng vì nếu kĩ năng giao tiếp là bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài với những người xung quanh ,thì thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài.
 Đứa trẻ nếu có kĩ năng giao tiếp có thể có được những thành công với những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với họ, là bố mẹ ông bà hay bạn bè của trẻ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích nghi cũng khó mà đạt được kết quả tốt cho cuộc sống của mình.
3.4.3.1. Kĩ năng thích nghi các loại thức ăn
 Đối với trẻ có những sở thích hơi đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn những thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay nước uống nhất định điều đó là thường do chúng ta vô tình tập cho trẻ khi còn bé, vì vậy một mặt chúng ta vẫn tôn trọng những sở thích này nhưng vẫn tập cho trẻ ăn những loại thức ăn đa dạng, vì nếu không có những sở thích về ăn uống của trẻ sẽ gây ra những khó khăn, rắc rối đặc biệt trong các chuyến đi chơi xa.
- Các bữa ăn cho trẻ ở trường tôi luôn tạo không gian thoáng mát, hợp vệ sinh đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn uống ngon miệng.
- Bữa nào mà trẻ ăn ngon thì tôi gắn 1 cái lá cờ và 1 khuôn mặt tươi cười, bữa nào trẻ không tập trung ăn thì sẽ có khuôn mặt mếu đến cuối tuần tổng kết khen ngợi trẻ về các lá cờ và tặng cho trẻ một món quà nho nhỏ. Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn cũng không nên trách mắng mà tôi sẽ gần gũi động viên khuyến khích trẻ tự xúc ăn hết xuất vào làn sau như “ Cô biết là con sẽ làm được tốt hơn .
 Trước bữa ăn để tạo cảm giác ngon miệng và thích thú khi ăn tôi giới thiệu các món ăn ngon và tác dụng của các loại thực phẩm mà trẻ ăn thật hấp dẫn và thu hút.
Ảnh: Trẻ có kĩ năng xúc cơm, trẻ được khen ngợi tặng cờ
3.4.3.2. Kĩ năng thích nghi với môi trường.
 Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu không vệ sinh và ô nhiễm là không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch cũng không phải là điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể nghịch cát, đất trong một chừng mực vừa phải vì điều đó vừa giúp trẻ thỏa mãn được tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Dĩ nhiên là có sự giám sát của người lớn, nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi có dấu hiệu nguy hiểm, còn đối với vài cú vấp ngã thì cứ để cho trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn mà chúng ta còn tránh được sự mè nheo của trẻ. Quan điểm của tôi rèn luyện tính chịu đựng trước khó khăn và phải tự lập chủ động trong mọi biến cố có thể xảy ra. Qua những bài rèn luyện thể chất rất ít trẻ mắc bệnh về đường hô hấp như sổ mũi viêm họngdo thay đổi thời tiết.
Ảnh: Trẻ được hoạt động với cát
Ảnh: trẻ được hoạt động với sỏi
3.4.3.3. Kĩ năng thích nghi với đám đông.
 Con người có hai loại tính đó là tính hướng nội và tính hướng ngoại, và trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác nhau. Vì vậy tôi cho trẻ làm quen với đám đông phải dựa trên tính cách của các trẻ tùy thuộc loại tính khí nào. Với trẻ hướng ngoại thì chúng ta không cần lo ngại vì trẻ thường có xu hướng thích đám đông, thích sự ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ ngại tiếp xúc với đám đông có vẻ dụt dè nhú nhát. Nhưng các bé cũng có ưu điểm để thành công đôi khi còn tốt hơn cả trẻ hướng ngoại nếu được sự định hướng đúng cách của người lớn. Tôi giúp trẻ quen dần với đám đông qua việc cho trẻ tham gia giờ học dã ngoại, tham gia các giờ học ở trường.
 Ngoài ra, trong việc hòa nhập với xã hội, tôi tập cho trẻ thói quen ứng xử với một phong cách văn minh, lịch sự qua những hoạt động hàng ngày ở trường.
Ảnh: Trẻ đi dã ngoài được trải nghiệm nhiều kĩ năng như bắt vịt, cắt các lọai củ, bắt cá
a. Thói quen biết xếp hàng: Đây là thói quen mà hầu hết người lớn chúng ta không để ý khi tham gia vào các hoạt động chung. Nhưng hãy cố gắng tập cho trẻ làm quen và đứng xếp hàng ngay từ nhỏ để dần dần thay đổi được cách ứng xử kém văn hóa nơi công cộng là sự chen lấn nhau.
 Ở lớp tôi rèn cho trẻ thói quen xếp hàng ( không chen ngang xô đẩy bạn) khi tham gia vào một hoạt động nào đó như cùng nhau xếp hàng đi chơi công viên.
Ảnh: Trẻ có thói quen biết đứng xếp hàng
b. Thói quen bỏ rác vào thùng rác : Ngay tại lớp học, tôi cho đặt thùng rác đúng nơi quy định để trẻ thấy việc bỏ rác là thói quen trong lớp, khi chơi ngoài xân trường cũng cần bỏ rác và hướng dẫn cho trẻ bỏ rác vào thùng rác công cộng để hình thành thói quen này. Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định.
Ảnh : Trẻ tự bỏ rác đúng nơi quy định
c. Thói quen biết xin lỗi nói lời cảm ơn: Ngay từ bé chúng ta đã cho trẻ thấy cách ứng xử như vậy của người lớn và khi giao tiếp với trẻ, chính tôi cũng phải nói lời xin lỗi cảm ơn trẻ như vậy trẻ sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các cách ứng xử này.
 Kĩ năng thích nghi là một trong những kĩ năng giúp một đứa trẻ bình thường không có những năng lực đặc biệt gì nhưng vẫn có thể đạt được những thành công nhất định trong cuộc sống và không gục gã trước những thách thức khi bước vào đời.
3.4.4. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng, khéo léo, kiên trì.
 Để trẻ có những kĩ năng tự phục vụ tốt yêu cầu trẻ phải thật khéo léo và có tính kiên trì khi làm việc gì đó.Tôi luôn bên cạnh trẻ để gợi mở cho trẻ khi trẻ rất cố gắng nhưng vẫn chưa hoàn thành, tôi luôn đặt ra câu hỏi để trẻ tư duy vận dụng sự khéo léo cũng như kiên trì vào việc đang làm .Động viên khích lệ kịp thời khi trẻ đã làm tốt công việc được giao. VD: Tôi cho trẻ mặc áo cài cúc áo trẻ loay hay mãi chưa đóng được “ con phải cầm cúc như thế nào, con phải cho cúc áo vào đâu, đóng xong cúc áo thứ nhất rồi có phải đóng cúc áo nữa không, cô thấy con rất giỏi đấy, con làm rất tốt.” Đối với trẻ nhút nhát chưa làm được tôi sẽ tạo ra những chiếc áo có cúc áo dán bằng dấp dính, sau một thời gian tôi thay cho trẻ đóng bằng cúc to nhất với số lượng 2 cúc áo, tiếp theo là cúc nhỏ hơn và số lượng cúc áo cũng tăng dần lên.
 Ngoài ra tôi còn đưa ra một số bài học để giúp trẻ hứng thú hơn với kĩ năng tự phục vụ như: Bài học rót nước bình trong với cốc trong, bài học rót nước bình đục với có tay cầm, bài học xúc hạt với thìa to nhỏ vừa, bài học bốc chuyển hạt, bài học thả tăm vào lọ, bài học quét hót hạt đậu, bài học vắt nước với bọt biển.
Ảnh: Bài học cài cúc áo ,rót nước bình trong với cốc trong
Ảnh: Bài học quyét hót hạt đậu rót nước bình đục với cốc đục có tay cầm
Ảnh: Bài học xúc hạt với thìa to nhỏ vừa, Bài học thả tăm vào lọ
 Để giúp trẻ hình thành được những kĩ năng trên, tôi từng bước, từng bước mà thực hiện.
- Đối với trẻ chưa nói thạo, tôi sẽ nói chậm rãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ cách truyền đạt thông tin với cô giáo bằng cách ra hiệu lệnh khi cần giúp đỡ. Song song đó tôi đưa các đề tài rền kĩ năng tự phục vụ vào bài giảng hàng ngày và tiếp tục rèn trẻ mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ thực hiện mỗi ngày để nó trở thành thói quen tốt của trẻ. Tân dụng các tình huống cụ thể để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ mới nhớ lâu hơn.
- Tôi thường xuyên động viên, khích lệ cổ vũ trẻ, kịp thời khi trẻ làm được và làm tốt những công việc tự phục vụ . Nêu gương trước cả lớp những bạn năng nổ tích cực phục vụ cô.
 - Tôi nhẹ nhàng và chỉ dẫn tận tình cho trẻ tạo cho trẻ cảm giác tự tin là mình làm được và làm tốt. Đây cũng là cơ hội để cô và trẻ gần gũi nhau hơn.
3.5. Biệnpháp 5: Phân công công việc.
 Trong lớp phân công việc cho từng thành viên để bé hiểu rằng mỗi người đều có trách nghiệm với công việc và hình thành thói quen làm việc. Khi tổ chức các hoạt động ở lớp có thể phân công các việc cho các bé, cho bé phụ cô trong giờ ăn lấy ghế , lấy khăn, khăn ăn. Với trẻ lớn hơn thì giúp cô kê bàn, chia bát thìa giúp cô trải chiếu giúp cô lấy gối đệm chuẩn bị giờ ngủ.
 Khi về nhà, tôi cũng thường nhắc cha mẹ các con cũng phân công việc cho bé. Chẳng hạn cha mẹ đi làm về, hãy yêu cầu bé cất dép, cất giày cho mẹ lên giá để giày. Cứ như thế con có thói quen khi thấy mẹ về đến nhà là chạy đến đòi cất giày dép cho mẹ. khi đi siêu thị hay đi chơi, đi chợ cha mẹ hãy cho con đi theo và chia con một món đồ nhỏ để xách cùng. Cần tập và lặp lại để trẻ hình thành thói quen. Tuy nhiên khi thấy bé mệt thì không nên bắt ép.
Ảnh: Trẻ được phân công chia đĩa ,trẻ được phân công chia thìa
Ảnh: Trẻ được phân công lau nước trên sàn
Ảnh: Trẻ lấy gối chẩn bị giờ ngủ
3.6. Biện pháp 6: Khuyến khích kết quả tốt đẹp trẻ làm được.
 Việc khen ngợi cần được khen như hành động công nhận trẻ đã hoàn thành công việc nào đó, cho dù trẻ hoàn thành ở mức sơ sài nhất. Cụ thể tôi đưa ra những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc làm mà trẻ đã làm. Tôi không bao giờ dùng những từ khen ngợi quá đáng cho hành động đơn giản. Thay vào đó là những lời động viên tích cực như: Con đánh răng sạch quá, miệng con rất thơm vì con đã đánh răng, cám ơn con vì con đã xếp dép cho lớp, con đi vệ sinh đứng nơi quy định rồi đó, cảm ơn con đã cất gọn gàng đồ chơi cho cô, cô rất vui khi các con giúp cô lau sạch lá cây
Các hình thức tôi thường dùng để khen, tuyên dương những hành động tốt trước lớp cho trẻ được cắm cờ.
Ảnh : Trẻ được tặng cờ khi đã hoàn thành tốt công việc
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
 Trên đây chỉ là một số biện pháp của riêng cá nhân tôi rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy, thực tiễn cuộc sống xung quanh tôi. Những biện pháp trên đã giúp trẻ lớp tôi có thói quen tự phục vụ tốt hơn. Ngay khi mới vào lớp nhiều trẻ của tôi không có kĩ năng tự phục vụ hoặc phục vụ chưa tốt, qua một quá trình rèn luyện cho trẻ với các biện pháp mà tôi đã thực hiện. Giờ đây thì trẻ của tôi đã tiến bộ lên rất nhiều, nhiều cháu có thói quen tự phục vụ rất tốt, cháu thích thú được giúp đỡ cô và tự tin với người lớn để trẻ được làm: Mẹ, cô để con làm cho, con biết làm mà Cháu chủ động và mong chờ được ba mẹ, cô giáo và người lớn nhờ giúp ( bảng 2) . Chính những điều này tạo cho tôi thêm phấn khởi và yêu nghề hơn. 
a. Đối với trẻ:
-Trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn, năng động, tự tin, khéo léo.
- Trẻ kiên trì, mày mò,tìm tòi. 
- Trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào hoạt động.
- Trẻ có kỹ năng tự phục vụ. Các kỹ năng tự phục vụ của trẻ được nâng cao và tiến bộ rõ rệt
 Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, sự góp ý của các bạn đồng nghiệp trong trường qua các buổi dự giờ. Lớp học của tôi đã thu được những kết quả sau
Nội dung khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Số lượng
Tỉ lệ
%
Số lượng
Tỉ lệ
%
- Tự lấy nước cầm cốc uống
35
100
- Tự xúc cơm
35
100
- Tự cất bát, ghế sau khi ăn
35
100
- Tự cởi mặc quần áo, đội mũ, đi tất
34
97
1
3
- Tự mang giày đi dép
35
100
- Tự cất chăn, gối sau khi ngủ dạy
35
100
- Tự cất đồ dùng cá nhân
35
100
- Tự vứt rác đúng nơi quy định 
35
100
- Tự gấp khăn,quần áo
33
94
2
6
- Bài học xúc hạt với thìa to,vừa, nhỏ
35
100
- Bài học rót nước với bình đục trong 
35
100
- Bài học bốc chuyển hạt đậu
35
100
- Bài học đóng mở hộp lọ
34
97
1
3
- Bài học quét hót hạt đậu
35
100
- Bài học lau bụi trên đồ dùng
33
94
2
6
- Bài học ứng xử khi ho, hắt hơi,xỉ mũi
32
91
3
9
- Bài học đeo kính,đeo khẩu trang
35
100
- Bài học thả tăm vào lọ
35
100
- Bài học chải tóc đeo nơ
100
- Bài học cầm đồ đưa cho người khác
100
- Khả năng trẻ tự làm mà không cần cô nhắc nhở
30
86
5
14
Bảng 2 : Kết quả đạt được cuối năm học về kĩ năng tự phục vụ của trẻ
b.Đối với phụ huynh
 Phụ huynh thấy rõ con mình nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin thích đi học, yêu trường, yêu lớp, yêu cô, yêu bạn bè. Đặc biệt thấy con có nhiều kỹ năng tốt rất cần thiết cho cuộc sống nên thấy rất tin tưởng và yên tâm khi cho con đi học. Chính vì vậy các bậc cha mẹ rất nhiệt tình kết hợp với giáo viên cũng như nhà trường để rèn con mình ở nhà mọi lúc mọi nơi. 
c. Đối với giáo viên:
- Giáo viên có thêm nguồn tư liệu, thêm các bài học, trò chơi trong các hoạt động 
- Giáo viên chủ động lựa chọn các bài tập phù hợp với độ tuổi mình phụ trách, phù hợp với chủ đề, chủ điểm để dạy trẻ, nâng cao chất lượng giờ dạy của mình.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
 Yếu tố tạo nên tính tự phục vụ ở mỗi cá nhân là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng như là tự vạch ra con đường cho mình mà không ỷ lại hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có được khả năng này là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ giúp trẻ hạnh phúc hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó khuyến khích trẻ tạo ra những cơ hội để trẻ thể hiện mình. Những đứa trẻ biết tự phục vụ từ nhỏ thì nhanh nhẹn hoạt bát, nổi trội hơn hẳn trẻ khác.
 Còn đối với trẻ mầm non còn rất nhiều trẻ dưa dẫm, ỷ lại, được nuông chiều một cách thái quá dẫn đến không biết làm một số việc đơn giản như không biết gấp quần áo, không biết tự đi giày, không thích tự đi mà thích người lớn bế. trẻ không biết chăm sóc bản thân, không biết vệ sinh lười nhác,không giúp đỡ người khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó thiếu tự lập là một nguyên nhân trọng tâm nhất. Như chúng ta đã biết, trẻ em là một đối tượng khá nhạy cảm, nếu trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tốt thì trẻ phát triển theo hướng tốt. Ngược lại nếu trẻ tiếp xúc với nền giáo dục không đứng đắn sẽ dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Do đó việc giáo dục tính tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt và là phương pháp rất quan trọng và cần thiết .
 Cho trẻ tự phục vụ không phải chỉ có hướng dẫn cho trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ tự quyết định những vấn đề của mình. Đó cũng là giúp trẻ vận đống, suy nghĩ,sáng tạo, tự tin.
2. Bài học kinh nghiệm.
 Qua quá trình thực hiện “ Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự phụcc vụ cho trẻ 3-4 tuổi”đã giúp tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Không được xem nhẹ vấn đề giáo dục thói quen tự phục vụ cho trẻ trong quá trình chăm sóc và giáo dục nhà trẻ.
- Giáo viên tránh làm thay trẻ, nên giao việc cho từng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ tự chủ động hoạt động, để trẻ có trách nghiệm với công việc được giao. Cô cần đặt niềm tin vào trẻ rằng con có thể làm được. Điều này giúp trẻ tự tin vào khả năng của mình.
- Bằng những kinh nghiệm thực tế đã chứng minh cho mọi người : Dù ở lứa tuổi nào đi nữa thì người lớn chúng ta cũng phải tôn trọng trẻ, nên yêu thương và gần gũi trẻ. Đó chính là điều kiện để góp phần giúp thế hệ tương lai của đất nước sống có ích hơn, yêu lao động và yêu cuộc sống hơn.
- Phải đặt cái tâm của người giáo lên hàng đầu: Tạo cho trẻ “ Cô giáo như mẹ hiền”. Cần tạo cho trẻ cảm nhận: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Hãy yêu thương như con của mình, tận tình chỉ dạy trẻ. Khi thực hiện tránh nôn nóng, sợ mất thời gian mà phải kiên trì, liên tục và xiên suốt.
 - Bản thân cần phải tích cực tìm tòi học hỏi, nhận thức sâu sắc nội dung giáo dục và lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào dạy trẻ lớp mình.
- Mạnh dạn dám nghĩ ,dám làm, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện ý tưởng của mình.
- Phát huy ý tưởng tổng hợp của nhà trường, phụ huynh và cùng toàn thể CB-GVNV trong công tác giáo dục và hình thành kĩ năng tự phục vụ cho trẻ.
- Tổ chức nhiều hoạt động tạo mọi cơ hội cho trẻ hình thành kĩ năng này.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo tiềm năng đối với phụ huynh và đối với trẻ.
3. Kiến nghị đề xuất.
 - Mở nhiều lớp tập huấn chuyên môn về nội dung giáo dục kĩ năng sống cho giáo viên từng cơ sở.
- Tuyên truyền giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mâm non trên đài báo, tivi nhằm nâng cao nhận thứccủa cha mẹ học sinh.
- Tăng cường cơ sở vật chất để các trường tổ chức hoạt động tập thể có quy mô.
 Xin trân thành cảm ơn!
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách tâm lý học mầm non
Tuyển tập trò chơi phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo
Giải phẫu sinh lý và vệ sinh trẻ em
Chương trình giáo dục mầm non
Tìm và nghiên cứu tài liệu qua mạng,sách báo ,tạp chí giáo dục.