SKKN một số biện pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ trong trường mầm non
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Bác Hồ nói: “Không sạch sẽ thì bẩn, bẩn thỉu sinh bệnh tật”.
Bác luôn yêu cầu và kêu gọi: “Mọi người phải chú ý giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe”.
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng quan chăm sóc thế hệ trẻ vì trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục và phát triển sự nghiệp của cha ông. Trẻ em phát triển tốt nhờ vào rất nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là yếu tố vệ sinh phòng bệnh vì trẻ em nói chung và trẻ mầm non nói riêng là lứa tuổi dễ mắc bệnh nhất vì cơ thể trẻ trong giai đoạn này sức đề kháng còn yếu.
Vì vậy công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh cho trẻ mẫu giáo là một việc rất quan trọng và cần thiết giúp trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh , phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kỹ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai.
Là một giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo 3-4 tuổi- người trực tiếp giảng dạy và chăm lo cho các cháu từng bữa ăn, giấc ngủ tôi nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình cũng như tầm quan trọng của việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ tại nhóm lớp mình phụ trách. Chính vì vậy tôi luôn canh cánh trong lòng và tự hỏi mình: Làm sao? Làm như thế nào? Và cần phải làm những gì? để rèn cho trẻ cho trẻ thói quen vệ sinh một cách tốt nhất.
2. Mục đích nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển với tốc độ không ngừng, cuộc sống con người cũng không ngừng được nâng cao. Các xí nghiệp mọc lên nhanh chóng và hoạt động không mệt mỏi, đi đôi với sự phát triển ấy thì cũng kéo theo vô vàn thách thức: không khí ô nhiễm, nguồn nước ô nhiễm, bệnh tật gia tăng…
Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lý thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Vì vậy việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ là một việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh và phòng tránh bệnh tật một cách tốt hơn.
Việc giáo dục vệ sinh cho trẻ được lồng ghép vào các hoạt động hằng ngày tạo điều kiện được trải nghiệm, tích lũy vốn kinh nghiệm sống cho bản thân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Điều tra thực trạng tại cơ sở.
Khảo sát trên trẻ ở nhóm lớp mình phụ trách.
Nghiên cứu các tài liệu về công tác vệ sinh.
Tìm ra giải pháp thực hiện để nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh ở trẻ.
Đối chiếu kết quả đạt được trên trẻ sau khi thực hiện đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi A trường mầm non Song Khê – Thành phố Bắc Giang – Tỉnh Bắc Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp quan sát.
– Phương pháp điều tra, khảo sát.
– Phương pháp trực quan: Làm mẫu, thực hành…
– Phương pháp dùng lời: Đàm thoại, giảng giải…
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp đối chiếu, so sánh.
– Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
– Phương pháp toán học.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
Vệ sinh là biểu hiện của nếp sống văn minh, một biện pháp khoa học nhằm mục đích bảo vệ, nâng cao sức khỏe của con người. Để vệ sinh trở thành thói quen văn hóa mỗi người cần phải có một quá trình tập luyện, rèn luyện và đấu tranh với bản thân. Giáo dục thói quen văn hóa vệ sinh cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong những nhiệm vụ giáo dục toàn diện có ý nghĩa lớn đối với sự hình hành và phát triển nhân cách của trẻ sau này. Bởi đây là giai đoạn đánh dấu sự tự lập dần dần trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, giai đoạn định hình nhân cách. Giáo dục thói quen văn hóa vệ sinh là rèn luyện cho trẻ những thói quen của nếp sống văn minh như: tính sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng… Đồng thời cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản, khoa học về vệ sinh cá nhân. Bồi dưỡng cho trẻ những tình cảm, thái độ tích cực đối với việc thực hiện những hành vi văn hoá, tổ chức cho trẻ thực hiện các thói quen văn hoá vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày, giúp trẻ biết tự kiểm tra, đánh giá hành động vệ sinh của mình, của bạn… Từ đó hình thành cho trẻ thói quen thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh, để trẻ có thể tự bảo vệ mình, được sống thoải mái về thể chất và tinh thần – sống khỏe mạnh.
2. Cơ sở thực tiễn
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên tôi đã suy nghĩ trình bày thực tế để tìm biện pháp thực hiện.
* Thuận lợi
– Trường mầm non Song Khê trong những năm vừa qua nhận được nhiều sự quan tâm của lãnh đạo Sở, phòng Giáo dục, lãnh đạo thành phố giúp đỡ về cơ sở vật chất .
– Được sự quan tâm của BGH nhà trường mua sắm bổ sung các đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho hoạt động vệ sinh của trẻ.
– Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, năng động, yêu nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần đoàn kết, nhất trí cao, luôn có ý thức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
– Nhà trường duy trì được công tác bán trú, các cháu đi học cả ngày nên thuận lợi trong việc rèn trẻ.
– Các cháu đều ở cùng lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý giống nhau nên dễ dàng trong việc giáo dục.
– Được sự quan tâm của BGH nhà trường thường xuyên cử các đồng chí giáo viên cốt cán đi dự kiến tập về hoạt động giáo dục vệ sinh cho trẻ do Sở tổ chức và tham gia các lớp chuyên đề về công tác vệ sinh do Phòng giáo dục tổ chức nên đã có một số kiến thức và kỹ năng cơ bản về hoạt động vệ sinh.
– 100% giáo viên có năng lực, trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn.
– Bản thân có điều kiện tham khảo một số tài liệu, tập san qua chuyên đề hè và sách “Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo” của Bộ giáo dục và Đào tạo.
* Khó khăn
– Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ.
– Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế.
– Mét sè phô huynh cha quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ.
– Công tác phối hợp với phụ huynh của một số giáo viên còn hạn chế.
3. Các biện pháp nghiên cứu
Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã nghiên cứu tìm những biện pháp giải quyết như sau:
3.1. Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh
* Môi trường xã hội:
Muốn trẻ hứng thú với hoạt động vệ sinh thì việc đầu tiên là phải gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp. Trẻ có thích đến lớp thì mới hứng thú tham gia vào các hoạt động khác. Chính vì vậy mà chúng ta cần xây dựng môi trường thân thiện giúp trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động vệ sinh. Môi trường chăm sóc – giáo dục trong trường mầm non cần đảm bảo an toàn về mặt tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo.
* Môi trường vật chất
Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng – sai theo khả năng nhận thức của trẻ.
Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp điều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.
Ngoài ra giáo viên cần làm một số sách, tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện. Các hình ảnh trong sách, tranh phải rõ ràng, màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh hấp dẫn với trẻ.
Cô cần tạo môi trường gần gũi, phong phú bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh tại bồn rửa tay hay trang trí góc vệ sinh cho trẻ.
* Đồ dùng, dụng cụ vệ sinh
Trong tất cả các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là hoạt động vệ sinh thì đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao kết quả và ý thức vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ: Cô dạy các cháu úp ca cốc thì lớp phải giá để cốc và cốc cho trẻ thực hiện úp, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh cho trẻ.
Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh cho trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động.
3.2. Biện pháp 2: Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc – vệ sinh cho trẻ.
Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ mẫu giáo bé có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là cô giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kĩ năng thực hành , chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan đến vấn đề vệ sinh để áp dụng vào dạy trẻ.
Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.
Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp , giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:
Trẻ tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, chải đầu, đánh răng.
Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.
Biết gấp cất trải nệm, gối.
Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.
Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.
Cô cũng cần nắm được các kỹ năng cần rèn cho trẻ như:
Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh của lớp mầm, ngoài ra cô cần rèn cho trẻ.
Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
Biết dùng tay – khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…
Bản thân tích cực sưu tầm, nắm vững nội dung và nguyên tắc hướng dẫn thực hành thao tác vệ sinh: Rửa tay, rửa mặt…
Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ cách rửa tay bằng xà phòng phải hướng dẫn trẻ thực hiện theo đúng quy trình 6 bước:
Bước1: Làm ướt tay dưới vòi nước, lấy xà phòng xoa 2 lòng bàn tay vào nhau
Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 3: Dùng lòng bàn tay này chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại.
Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia và ngược lại.
Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi, xoay lại.
Bước 6: Xả cho tay sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch. Lau khô tay bằng khăn hoặc giấy sạch.
Bản thân luôn tìm tài liệu liên quan để nghiên cứu sau đó trao đổi với hiệu phó phụ trách chuyên môn, các tổ trưởng và giáo viên cùng thực hiện.
Manh dạn đăng kí hoạt động vệ sinh cho buổi hội giảng của trường để BGH, giáo viên góp ý kiến, xếp loại. Đây là một cách làm tạo động lực cho bản thân chú ý đến công tác chăm sóc- giáo dục vệ sinh cho trẻ.
Nghiên cứu một số tài liệu do nhà trường cấp phát: Bé giữ vệ sinh, bé sạch, thực hành vệ sinh và các lô tô vệ sinh… để tham khảo và hướng dẫn phụ huynh thực hành các thao tác vệ sinh cho trẻ.
Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
3.3. Biện pháp 3: Sưu tầm, vận dụng các bài thơ, truyện, bài hát và trò chơi vào hoạt động vệ sinh.
Tổ chức các hoạt động vui chơi chứa đựng nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh: Chơi là quá trình trẻ học làm người, trải nghiệm những xúc cảm, tình cảm, hành vi của con người qua các vai khác nhau. Với các chủ đề chơi về “gia đình”, “cửa hàng bách hoá”, “trường mầm non”, “Bác sỹ”… Khi trẻ tham gia vào trò chơi cũng chính là quá trình trẻ tiếp nhận tri thức, kỹ năng, hình thành xúc cảm, tình cảm một cách tự nhiên không ép buộc… Ví dụ trong chủ đề “gia đình” giáo viên có thể tiến hành cho trẻ chơi các trò chơi với búp bê, kết hợp với các dụng cụ vệ sinh, hoặc sử dụng các trò chơi đóng kịch (bằng các vở kịch có nội dung ngắn gọn, có thể do giáo viên soạn thảo dựa trên những hành vi của trẻ đã quan sát được), để rèn luyện cho trẻ các thói quen văn hoá vệ sinh thông qua các bước tổ chức trò chơi như; Chuẩn bị cho trẻ chơi: Cho trẻ làm quen với đời sống xung quanh (qua dạo chơi, tham quan, trò chuyện, trao đổi với trẻ…) Trong quá trình đó cần hướng trẻ chú ý tới hành động của con người, mối quan hệ của họ, kết hợp với giải thích động cơ hành động, tạo môi trường hoạt động, giúp trẻ dễ dàng sử dụng các vật liệu có sẵn và hoàn cảnh xung quanh để chơi.
Khi tổ chức cho trẻ chơi: Cho trẻ đàm thoại trước khi chơi, đàm thoại giúp trẻ có cơ hội độc lập chuyển tri thức và kỹ năng đã biết để đạt mục đích chơi, lập kế hoạch tổ chức thực hiện và xác định những điều kiện cần thiết. Trong quá trình tổ chức, điều kiện quá trình chơi của trẻ, giáo viên có thể tham gia trực tiếp vào trò chơi với trẻ, giúp trẻ phát triển mối quan hệ trong trò chơi bằng cách mở rộng nội dung chơi, vai chơi, đánh giá vai chơi trong những tình huống cụ thể, hướng dẫn trẻ, kịp thời giúp trẻ điều chỉnh hành vi phù hợp. Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên với tư cách là người điều khiển trò chơi đánh giá hành động của trẻ, giao nhiệm vụ cho trẻ tiếp tục luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày để củng cố hành vi.
Với mỗi đề tài tôi luôn nghiên cứu tìm hiểu kĩ trước khi dạy để xây dựng bài theo chủ đề một câu chuyện để kích thích sự tò mò và hứng thú ở trẻ.
Ví dụ: Ở hoạt động vệ sinh với nội dung “Đánh răng” ở chủ đề bản thân tôi sử dụng truyện “Gấu con bị đau răng”, cô dẫn dắt cho trẻ biết vì Gấu con hay ăn kẹo, bánh mà lại lười đánh răng nên bị sâu răng.
Ngoài các câu chuyện tôi còn sử dụng một số bài thơ, bài hát để gây hứng thú, phát huy tính tích cực của trẻ khi tham gia hoạt động.
Ví dụ: Trước giờ ăn cơm để rèn luyện thói quen ăn uống vệ sinh sạch sẽ tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”:
Giờ ăn đến rồi
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa, bát, đĩa
Xúc cho gọn gàng
Chớ có vội vàng
Cơm rơi, cơm vãi.
Hay với bài thơ “Bé ơi”
“Bé ơi nhớ nhé
Giờ ăn đến rồi
Rửa tay sạch sẽ
Trước khi ăn cơm
Bé ngồi ngay ngắn
Mời cô, mời bạn
Cùng bé xơi cơm
Nếu có hắt hơi
Bạn ơi nhớ nhé
Quay ra đằng sau
Tay che miệng mũi
Nếu không như thế
Sẽ mất vệ sinh
Bạn bè cười chê
Chẳng đẹp tí nào
Bé ơi nhớ nhé”.
Đồng thời cũng có thể kết hợp một số bài hát như “ Khám tay”, “Tập rửa mặt”, “Thật đáng yêu”…qua đó trẻ vui vẻ mạnh dạn và hứng thú hơn với giờ học.
3.4. Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục
Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh: Tổ chức hoạt động vệ sinh là cách thức tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ. Mục đích là trang bị cho trẻ những tri thức chủ yếu về vệ sinh, giúp trẻ nắm được các thao tác thực hiện trong từng hành động vệ sinh một cách chính xác, đúng đắn, làm cơ sở để luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày. Các tiết vệ sinh có thể tổ chức theo từng nhóm nhỏ từ 8 – 10 trẻ vào các thời điểm làm vệ sinh cá nhân, trước khi ăn cơm, trước khi ngủ trưa… Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh cá nhân, giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật)… để giúp trẻ dễ dàng nắm được cách thức thực hiện, có hứng thú với việc thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh.
Các cháu mẫu giáo bé tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu.
Để thực hiện tốt hoạt động vệ sinh thì cô phải chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và động tác mẫu.
Các cháu có thể thực hiện các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích, cô có thể tập truớc cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.
Ví dụ: Thao tác đánh răng một cháu thực hiện các cháu khác làm theo – cô đọc lời hướng dẫn.
Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong.
Ví dụ: Cháu Thu Trang sau khi ăn xong nếu cháu không đánh răng cháu thấy rất khó chịu và không chịu đi ngủ.
Lồng ghép vào các hoạt động học có chủ đích: Trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho trẻ, thông qua những môn học, bài học cụ thể như: Khám phá khoa học; Khám phá xã hội; Làm quen với tác phẩm văn học… Giáo viên có thể tiến hành tích hợp nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ. Tuy nhiên khi tiến hành lồng ghép giáo viên cần chú ý đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý, khách quan của tri thức môn học; đảm bảo tính hệ thống, trọn vẹn của nội dung hoạt động học tập; đảm bảo tính vừa sức cho trẻ. Để lồng ghép nội dung giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ thông qua các hoạt động học tập có hiệu quả, khi tiến hành tích hợp giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp, từ đó xác định nội dung giáo dục thói quen hành vi văn hoá cụ thể cần lồng ghép, thời điểm lồng ghép và yêu cầu cần đạt được.
Ví dụ: Qua giờ làm quen văn học với đề tài: Truyện “Gấu con bị đau răng” cô giáo dục trẻ biết vệ sinh răng miệng sạch sẽ vào buổi sáng sau khi ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ.
Hoặc kể chuyện theo tranh “Mẹ tắm cho em bé”.
Mục đích: Củng cố cho trẻ biết cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận cơ thể: mắt, mũi, miệng, tay, chân..
Chuẩn bị: Tranh to và màu sắc đẹp “ Mẹ đang tắm cho em bé”
Một số câu hỏi để hỏi khi trẻ xem tranh
Một búp bê để minh hoạ.
Tiến hành: Đọc cho trẻ nghe bài thơ “Yêu mẹ”
Cô hỏi trẻ ở nhà ai thường tắm cho các con?
Cô cho trẻ xem tranh “Mẹ đang tắm cho em bé” và hỏi trẻ: Tranh vẽ gì đây các con? Mẹ đang làm gì? Bé đang làm gì?
Sau đó cô kể cho cháu nghe câu chuyện theo sự sáng tạo của cô. Có thể kể như sau: Hôm qua chủ nhật, Băng ở nhà chơi với chị, trời nắng mà tay chân bị bẩn , mẹ tắm cho Băng, Băng thích lắm. Mẹ lần lượt gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ tay chân và toàn thân một cách nhẹ nhàng bằng nước mát rượi.
Hay ở hoạt động khám phá khoa học đề tài “Tìm hiểu một số loại quả” cô giáo dục trẻ trước khi ăn phải biết rửa tay, rửa hoa quả, gọt vỏ trước khi ăn và biết bỏ rác đúng nơi quy định.
3.5. Biện pháp 5: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày
Tổ chức cho trẻ luyện tập trực tiếp, thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày: Trẻ lứa tuổi mầm non có đặc điểm mau nhớ, chóng quên, vì vậy mỗi hành vi văn hoá vệ sinh đã hình thành cho trẻ cần phải được luyện tập củng cố một cách thường xuyên. Cho trẻ thực hành thường xuyên trong các thời điểm sinh hoạt hàng ngày (khi đón, trả trẻ, khi tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, chơi học..), đó là cách luyện tập tốt nhất để giúp trẻ biến những kỹ năng đã hình thành trở thành kỹ xảo, thói quen. Ví dụ khi tổ chức cho trẻ ăn cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay, lau miệng trước và sau khi ăn; dạy trẻ trước khi ăn phải mời mọi người, khi ăn phải nhai kỹ, không được ngậm thức ăn trong miệng, không được dùng tay bốc thức ăn, không vừa ăn vừa nói chuyện; Trong giờ chơi cô giáo hướng dẫn trẻ cách chơi với đồ vật, đồ chơi, cách giao tiếp, giúp đỡ bạn trong quá trình cùng chơi; không được tranh giành đồ chơi với bạn, không được đập, phá làm hỏng đồ chơi… Khi trẻ thực hiện các hành động cô giáo cần giám sát, kiểm tra, đánh giá, động viên khen ngợi kịp thời những trẻ làm đúng, làm tốt, hướng dẫn, uốn nắn, điều chỉnh những trẻ làm chưa đúng. Thông qua việc luyện tập thường xuyên, hàng ngày, với sự giúp đỡ và giám sát chặt chẽ của giáo viên, trẻ sẽ có được những kỹ năng thực hiện hành động có văn hoá vệ sinh, dần dần những kỹ năng đó sẽ trở thành thói quen, thành nhu cầu bên trong của trẻ. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày.
Ví dụ: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp mũ nón vào giá, chải đầu, đi dép đúng chân.
Trong giờ trò chuyện cô có thể gợi hỏi: “Mỗi sáng thức dậy các con thường làm gì?
+ Khi đánh răng các con cầm bàn chải bằng tay nào?
+ Chải răng xong các con làm gì?
+ Sau khi chải răng, rửa mặt xong các con làm gì?
+ Khi ăn các con có làm rơi vãi cơm không?
– Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm thìa đúng tay.
– Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoàm và nuốt vội.
– Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.
Không xúc qua đầu, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng – ăn xong lau miệng.
Uống nước từ từ, không làm đổ, không làm vỡ cốc, không rót nước quá đầy, thò tay vào bình nước, không uống nước lã.
Mặc: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ – không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo – thường xuyên tắm rửa, thay quần áo.
Với bạn bè: Biết nhường nhịn bạn khi chơi và cùng chơi không đánh cãi nhau gây gổ bắt nạt bạn yếu.
Với thiên nhiên môi trường:
Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, lớp vườn hoa. Chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh.
Giờ chơi phản ánh sinh hoạt.
Dạy trẻ biết rửa chén, bát, đĩa, xoong, chảo…
Dạy trẻ biết tôn trọng yêu kính người lớn tuổi, người trong gia đình… biết giúp đỡ lẫn nhau.
Giờ vẽ: Dạy trẻ ngồi đúng tư thế không nói chuyện.
Giờ trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô, giáo dục các cháu theo chủ điểm yêu cầu của lớp học.
3.6. Biện pháp 6: Phát động phong trào thi đua, khen thưởng
Với trẻ nhỏ việc học tập, rèn luyện muốn đạt kết quả cao thì phải tạo cho trẻ một cảm giác thoải mái. Trẻ yêu thích việc gì thì mới hoàn thành tốt việc đó. Hiểu tâm- sinh lý của trẻ ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn tham mưu với nhà trường, ban đại diện hội phụ huynh phát động phong trào thi đua “Bé khỏe – vệ sinh” và lập quỹ nhỏ để phát thưởng cho các cháu có thành tích xuất sắc về công tác vệ sinh.
3.7. Biện pháp 7: Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác rèn thói quen vệ sinh cho trẻ
Hồ Chủ Tịch đã dạy “Giáo dục ở nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ở gia đình, ngoài xã hội. Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng nếu thiếu giáo dục ở gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”
Để phối hợp với gia đình trong việc giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ, giáo viên cần tiến hành trao đổi thường xuyên với phụ huynh trẻ thông qua giờ đón và trả trẻ hàng ngày, qua đó nắm bắt những đặc điểm, hành vi của trẻ ở gia đình. Đồng thời thông báo cho gia đình biết tình hình, những biểu hiện của trẻ ở lớp, những nội dung, yêu cầu giáo dục của cô đối với trẻ. Từ đó có cách thức tác động, phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện hành vi văn hoá cho trẻ. Thói quen văn hoá vệ sinh cũng chính là thể hiện trình độ văn hoá của con người, có thói quen văn hoá vệ sinh mỗi cá nhân sẽ tự bảo vệ, nâng cao sức khỏe cho bản thân, có lối sống văn minh, lịch sự. Chính vì vậy, cần thiết phải giáo dục cho trẻ những thói quen văn hoá ngay từ khi còn nhỏ. Hoạt động này muốn đạt hiệu quả cao, trong công tác giáo dục, giáo viên mầm non cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm tốt, phải nắm vững nội dung chương trình giáo dục, biết cách lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, linh hoạt và sáng tạo trong tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Biết cách tạo cho trẻ sự hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động. Để làm được điều đó người giáo viên phải có lòng yêu trẻ, nắm vững đặc điểm của trẻ, có sự kiên trì, nhẫn lại trong khi rèn luyện cho trẻ.
Luôn gương mẫu trước trẻ trong việc thực hiện các hành vi văn hoá, vệ sinh. Thường xuyên trao đổi, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giáo dục trẻ. Làm tốt được điều này sẽ là biện pháp hữu hiệu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt.
Phối hợp với gia đình trong quá trình giáo dục trẻ. Hàng ngày trẻ chỉ sinh hoạt ở trường mầm non với thời gian nhất định, còn lại trẻ sống ở gia đình, chịu sự giáo dục của gia đình. Vì thế, nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để thống nhất về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục tác động đến trẻ một cách đồng bộ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, hình thành hành vi văn hoá vệ sinh cho trẻ.
Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ.
III. KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG
Sau khi áp dụng một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi A Trường mầm non Song Khê tôi thấy đạt một số kết quả như sau:
Đối với trẻ
Đa số các cháu đã thực hiện được những kỹ năng như: Tự rửa mặt, rửa tay, chải đầu, thay quần áo sử dụng thành thạo dụng cụ vệ sinh.
Biết giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ.
Biết bỏ rác vào giỏ, không vất rác bừa bãi.
Biết đi tiêu tiểu đúng nơi quy định.
Trẻ không ăn quả xanh, uống nước lã.
Khi ăn cơm trẻ không làm rơi vãi.
Các cháu đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự.
Biết giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, không khạc nhổ bừa bãi, khi ho, ngáp, hắt hơi đã biết lấy tay che miệng.
Tỉ lệ sức khỏe: Các bệnh về mắt, răng, miệng, da giảm 15%
Kết quả cụ thể như sau:
Kết quả đạt được
Trước khi thực hiện
Sau khi thực hiện
Kỹ năng thao tác vệ sinh
10/50= 20%
47/50= 94%
Có ý thức việc mình làm
15/50=30%
45/50= 90%
Tình trạng sức khỏe
25/50= 50%
43/50= 85%
Đối với giáo viên
Nắm được mục đích, yêu cầu của hoạt động vệ sinh cho trẻ trong trường mầm non. Khai thác sâu nôi dung vệ sinh cho trẻ, xây dựng kế hoạch giáo dục vệ sinh cho trẻ theo chương trình GDMN phù hợp với trẻ ở nhóm lớp.
Nắm vững các phương pháp giáo dục vệ sinh cho trẻ, lồng ghép, tích hợp một cách sáng tạo nhằm rèn thói quen vệ sinh cho trẻ.
Giáo viên tự tin hơn khi thực hiện các hoạt động vệ sinh cho trẻ.
Xây dựng nội dung, cách thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh một cách phù hợp, làm chuyển biến nhận thức của phụ huynh trong việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. Thu hút được sự quan tâm của phụ huynh với nhà trường: Hợp tác cùng giáo viên rèn thói quen vệ sinh cho trẻ, ủng hộ một số đồ dùng, dụng cụ vệ sinh.
Phạm vi ứng dụng
Tác dụng của đề tài này rất lớn đối với bậc học mầm non vì vậy tôi thấy giải pháp nêu trên có thể phổ biến tới toàn bộ lớp học trong trường mầm non Song Khê, trong thành phố Bắc Giang, Tỉnh Bắc Giang nhằm thực hiện tốt việc đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục và phát huy tính tích cực của trẻ.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Việc rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mẫu giáo là vô cùng quan trọng. Song công việc thật không đơn giản. Trình độ nhận thức tiếp thu của mỗi cháu khác nhau, điều kiện hoàn cảnh sống từng gia đình mỗi cháu không đồng đều vì vậy qua quá trình thực hiện tôi nhân thấy muốn thực hiện tốt việc này, bản thân mỗi giáo viên cần phải:
Trau dồi kiến thức vệ sinh và hành vi văn minh cần thiết.
Cô giáo phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, mẫu mực, chịu khó, kiên trì tìm tòi học hỏi, luôn có biện pháp sáng tạo mới trong giảng dạy và chăm sóc giáo dục trẻ.
Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng sửa lại kịp thời cho trẻ nhằm kích thích những việc làm tốt, và hạn chế những hành vi xấu của trẻ.
Cô giáo phải hết lòng yêu thương các cháu, với tinh thần là người mẹ thứ hai của các cháu, cô giáo phải nhạy bén trước những diễn biến của các cháu, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các cháu, hiểu được hoàn cảnh sống của từng gia đình.
Gia đình phải thật sự là mái ấm tình thương của trẻ, bố mẹ phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo, phải quan tâm, yêu thương trẻ, có trách nhiệm giáo dục trẻ ngay từ khi mới chào đời.
Tuyên truyền với phụ huynh về công tác giáo dục rèn luyện vệ sinh văn minh cho trẻ. Do đó muốn giáo dục chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống nhất phương pháp giáo dục của 2 cô giáo trong lớp cũng như phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Kiến nghị
Đề nghị Bộ giáo dục và đào tạo xuất bản thêm nhiều sách về vấn đề vệ sinh để giáo viên có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu bồi dưỡng thêm để nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ.
Đề nghị Phòng GD-ĐT, nhà trường tổ chức nhiều buổi tập huấn, hội giảng về chuyên đề vệ sinh giúp giáo viên đặc biệt là những giáo viên trẻ mới vào ngành bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức các hoạt động vệ sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong việc dạy trẻ có những thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, bản thân tôi đã áp dụng tại trường mầm non Song Khê. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Thị Hường