Quyền đối với giống cây trồng trong tư pháp quốc tế

Giống cây trồng là quần thể bao gồm nhiều cây trồng có sự đồng nhất về hình thái, thuộc về cùng một phân cấp thực vật, được chọn lọc theo những đặc điểm mong muốn để đem lại những giá trị nhất định về kinh tế, văn hoá.

1. Khái niệm quyền đối với giống cây trồng theo quy định pháp luật Việt Nam

Giống cây trồng, theo quy định tại khoản 24 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ được hiểu là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được.

Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Nội dung của quyền này là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ văn bằng bảo hộ giống cây trồng do có việc chọn tạo, phát hiện, phát triển, sử dụng, chuyển giao cho người khác, để thừa kế, kế thừa và quyền được bảo vệ khi quyền của tác giả, chủ văn bằng bảo hộ đối với giống cây trồng bị xâm phạm. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch. Trong đó:

– Vật liệu nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây có khả năng phát triển thành một cây mới dùng để nhân giống hoặc để gieo trồng.

– Vật liệu thu hoạch là cây hoặc bộ phận của cây thu được từ việc gieo trồng vật liệu nhân giống.

Căn cứ để xác lập quyền đối với giống cây trồng dựa trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thực hiện thủ tục đăng ký theo quy định pháp luật. Văn bằng bảo hộ cũng là cơ sở để chủ sở hữu, tác giả thực hiện các quyền hợp pháp theo quy định trong đó có quyền khởi kiện, yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của mình đối với giống cây trồng do mình nghiên cứu ra khi bị các chủ thể khác xâm phạm bất hợp pháp.

2. Nội dung của quyền đối với giống cây trồng

Nội dung của quyền đối với giống cây trồng được quy định tại mục 1 Chương XIV Luật Sở hữu trí tuệ gồm các quyền sau:

Thứ nhất là quyền tác giả giống cây trồng – người trực tiếp lai tạo, phát triển, nghiên cứu thành công giống cây trồng mới. Nếu có từ hai người trở lên thì họ là đồng tác giả. Tác giả giống cây trồng có những quyền sau:

– Được ghi tên với danh nghĩa là tác giả trong Bằng bảo hộ giống cây trồng, Sổ đăng ký quốc gia về giống cây trồng được bảo hộ và trong các tài liệu công bố về giống cây trồng;

– Nhận thù lao từ chủ văn bằng bảo hộ theo thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận thì thực hiện trả thù lao theo quy định pháp luật.

Thứ hai là quyền của chủ Bằng bảo hộ – Chủ sở hữu giống cây trồng được cấp bằng bảo hộ. Theo quy định tại Điều 186, chủ bằng bảo hộ có những quyền sau:

– Sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ gồm: Quyền sản xuất hoặc nhân giống; Quyền chế biến nhằm mục đích nhân giống; Quyền chào hàng; Quyền bán hoặc thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác; Quyền xuất khẩu; Quyền nhập khẩu; Hoặc lưu giữ để thực hiện các quyền trên.

– Quyền ngăn cấm các hành vi sau đây của người khác khi xâm phạm quyền của chủ văn bằng gồm:

+ Hành vi khai thác, sử dụng quyền đối với giống cây trồng mà không được chủ văn bằng cho phép.

+ Hành vi sử dụng tên của giống cây trồng hoặc gần giống với tên của giống cây trồng đã được cấp văn bằng bảo hộ để đặt tên cho giống của mình.

+ Sử dụng giống cây trồng đã được cấp văn bằng bảo hộ mà không trả tiền đền bù theo quy định.

– Quyền để thừa kế đối với giống cây trồng và chuyển giao đối với giống cây trồng.

3. Điều kiện bảo hộ đối với giống cây trồng

Điều kiện bảo hộ đối với giống cây trồng được quy định tại Chương XII Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau:

Điều 158. Điều kiện chung đối với giống cây trồng được bảo hộ

Giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp.

Tính mới của giống cây trồng: Điều 159 quy định về tính mới của giống cây trồng như sau:

Giống cây trồng được coi là có tính mới nếu vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch của giống cây trồng đó chưa được người có quyền đăng ký hoặc người được phép của người đó bán hoặc phân phối bằng cách khác nhằm mục đích khai thác giống cây trồng trên lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký một năm hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký sáu năm đối với giống cây trồng thuộc loài thân gỗ và cây nho, bốn năm đối với giống cây trồng khác.

Tính khác biệt của giống cây trồng: Điều 160 Luật sửa đổi, bổ sung LSHTT 2005 quy định:

Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt rõ ràng với các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên.

Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 trên này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc vật liệu thu hoạch của giống đó được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;

b) Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc đưa vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;

c) Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc đơn đăng ký vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối.

Tính đồng nhất của giống cây trồng: Giống cây trồng được coi là có tính đồng nhất nếu có sự biểu hiện như nhau về các tính trạng liên quan, trừ những sai lệch trong phạm vi cho phép đối với một số tính trạng cụ thể trong quá trình nhân giống – Điều 161 LSHTT 2005.

Tính ổn định của giống cây trồng: Giống cây trồng được coi là có tính ổn định nếu các tính trạng liên quan của giống cây trồng đó vẫn giữ được các biểu hiện như mô tả ban đầu, không bị thay đổi sau mỗi vụ nhân giống hoặc sau mỗi chu kỳ nhân giống trong trường hợp nhân giống theo chu kỳ – Điều 162 LSHTT 2005.

4. Đặc điểm quyền đối với giống cây trồng trong tư pháp quốc tế

Quyền đối với giống cây trồng trong tư pháp quốc tế cũng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn, tạo hoặc phát hiện và và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu và quyền này mang đầy đủ các đặc điểm của một quan hệ dân sự

Cũng như các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khác chịu sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế các quan hệ của quyền đối với giống cây trồng trong tư pháp quốc tế luôn mang yếu tố nước ngoài. 

Yếu tố nước có thể được thể hiện qua ba trường hợp sau:

– Chủ thể: phải có ít nhất một bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài (chủ thể yêu cầu được bảo hộ – Chủ sở hữu giống cây trồng là người nước ngoài).

– Khách thể tồn tại ở nước ngoài (Chủ sở hữu ở Việt Nam, thuê chuyên gia, nhà xưởng, phòng thí nghiệm ở nước ngoài để nghiên cứu giống cây trồng).

– Sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài. Ví dụ: Chủ sở giống cây trồng tại Việt Nam muốn nộp đơn yêu cầu được bảo hộ ở các quốc gia khác như Mỹ, Anh, Trung Quốc,…

5. Các biện pháp bảo hộ quyền đối với giống cây trồng trong tư pháp quốc tế

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp dựa trên việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế đa phương, song phương. Điển hình phải kể đến là:

– Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV) ( 1961 sửa đổi mới đây nhất là năm 1991 – hiệu lực năm 1998).

Đối tượng được bảo hộ theo UPOV:  Giống cây được giải thích là một nhóm cây thuộc duy nhất một cấp phân loại thực vật thấp nhất, bất kể có đáp ứng đầy đủ hay không các điều kiện để công nhận quyền của nhà tạo giống, nhóm cây có thể:

+ Xác định được bằng sự thể hiện các tính trạng thu được từ các kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen đã biết.

+ Phân biệt được với các nhóm cây bất kỳ khác bằng sự thể hiện của ít nhất một trong các tình trạng nói trên;

+ Được coi là một đơn vị khi xét về khả năng phù hợp của nó để nhân giống bất biến.

Giống cây sẽ được công nhận nếu đáp ứng các tiêu chuẩn: mới, khác biệt, đồng nhất và ổn định.

Nguyên tắc bảo hộ: Nguyên tắc đối xử quốc gia – mỗi bên kí kết phải giành cho công dân của các bên kí kết khác, các cá nhân dịnh cư tại và pháp nhân có trụ sở đăng ký trên lãnh thổ của Bên kí kết khác sự đối xử giống như sự đối xử mà luật của mỗi bên kí kết đã và sẽ giành cho công dân của mình đối với việc công nhận va bảo hộ quyền của nhà tạo giống cây.

Các bên kí kết phải bảo hộ tối thiểu 15 loài giống cây tại thời điểm bị ràng buộc bởi CƯ và phải bảo hộ tất cả các loài và giống cây sau 10 năm tính từ thời hạn nói trên.

Căn cứ xác lập quyền: Các bên kí kết phải nộp đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống.

Bất kỳ nhà tạo giống nào đã nộp đơn yếu cầu bảo hộ giống cây theo quy định vào một trong các bên kí kết “đơn đầu tiên” đều được hưởng quyền ưu tiên trong thời hạn 12 tháng cho việc nộp các đơn yêu cầu công nhận quyền của nhà tạo giống đối với cùng một loại giống cây vào cơ quan có thẩm quyền của bên kí kết khác (đơn tiếp theo). Thời hạn này được tính từ ngày nộp đơn đầu tiên.

Thời hạn bảo hộ: Không ngắn hơn 20 năm kể từ ngày công nhận quyền của nhà tạo giống. Đối với thân gỗ và thân leo, thời hạn bảo hộ không được ngắn hơn 25 năm kể từ ngày công nhận quyền của nhà tạo giống.

Phạm vi quyền của nhà tạo giống:

Nhà tạo giống dùng để chỉ: Người tạo ra, hoặc phát hiện và cải tạo một giống cây; Người thuê hoặc trả công cho những người nói trên để tạo ra, phát hiện và cải tạo một giống cây, nếu luật pháp của các Bên ký kết liên quan quy định như vậy, hoặc Người thừa kế hợp pháp của người nêu trên đây, tuỳ trường hợp.

Nhà tạo giống có các quyền sau:

+ Nhà tạo giống có thể cho phép người khác thực hiện quyền của mình phù hợp với điều kiện và hạn chế nhất định như: 

Các hành vi liên quan đến vật liệu nhân như sản xuất (nhân giống) chế biến nhằm mục đích nhân giống, chào bán, bán hoặc các hành vi tiếp cận thị trường khác, xuất khẩu, nhập khẩu phải được phép của nhà tạo giống.

Quyền của nhà tạo giống không được bảo hộ trong các ngoại lệ bắt buộc sau (Tức là nếu người khác thực hiện các hành vi dưới đây thì không bị coi là xâm phạm quyền của nhà tạo giống):

– Các hành vi được thực hiện phục vụ nhu cầu cá nhân và mục đích phi thương mại;

– Các hành vi được thực hiện nhằm mục đích thí nghiệm và;

– Các hành vi được thực hiện nhằm mục đích lai tạo các giống theo quy định tại Điều 15 của Công ước UPOV.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại pháp luật của từng quốc gia. 

Một trong các đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền đối với giống cây trồng là mang tính lãnh thổ. Nên pháp luật về sở hữu trí tuệ của quốc gia nào chặt chẽ, mạnh mẽ thì việc bảo hộ quyền đối với giống cây trồng càng tốt hơn.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật Minh Khuê