Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam – Quy luật giá trị và – Studocu

Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
Đinh Thị Quỳnh Hà
29 May 2016
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội

text.123doc/document/3567584-quy-luat-gia-tri-va-bieu-hien-cua-no-trong-nen-
kinh-te-thi-truong-viet-nam

Mục lục Trang

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cho tới năm 1986 đã chuyển sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hỗn hợp,
phụ thuộc cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xét về mặt
kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức
Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân
hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương,
ASEAN,.. tế Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ còn nhiều vấn
đề tồn tại cần giải quyết, các vấn đề tồn tại gắn liền với gốc rễ của bất ổn kinh
tế vĩ mô đã ăn sâu, bám chặt vào cơ cấu nội tại của nền kinh tế nước này, cộng
với việc điều hành kém hiệu quả, liệu dẫn đến liên tục gặp lạm phát cũng như
nguy cơ đình đốn nền kinh tế.

Chúng ta đã biết được Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản
xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động
của chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động
của quy luật này. Chính vì thế, chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm
hiểu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, để có thể vận dụng nó khắc phục những nhược điểm của nền
kinh tế và phát triển đất nước. Vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài “ Quy
luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam”.

Em xin cảm ơn sự hướng dẫn và và dạy dỗ tận tình qua các bài giảng của
cô giáo Đinh Thị Quỳnh Hà. Rất mong sự đóng góp ý kiến của cô để bài tiểu
luận hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả
thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt
động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy
luật giá trị phát huy tác dụng.
b) Tác động của quy luật giá trị:
Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:

  • Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
  • Điều tiết sản xuất tức là điều hòa , phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
    ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông
    qua thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động
    của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng
    hóa sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ
    xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch
    vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành ấy vượt quá cầu, giá cả
    hàng hóa sẽ giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình
    ấy buộc người sản xuất phảo thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang
    đầu tư vào nhành có giả cả hàng hóa cao.
  • Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường.
    Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi
    giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
  • Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
    động. thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
    Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng háo là một chủ thể kinh
    tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do
    điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác
    nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động xá biệt nhỏ hơn hao phí lao
    động xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào
    có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao đỗng xã hội cần thiết sẽ ở thế

bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí
lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật,
cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động.
sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn,
mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát
triển mạnh mẽ.

  • Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
    thành người giàu, người nghèo.
    Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người
    có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt
    nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết,
    nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm them tư liệu sản xuất, mở
    rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận
    lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc găoj rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến
    phá sản, trở thành nghèo khó.
    c) Biểu hiện của quy luật giá trị trong tư bản tự do canh tranh và tư bản
    độc quyền:
  • Trong thời kì tư bản tự do cạnh tranh: giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả
    sản xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.
    Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều
    kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư
    bản chủ nghĩa phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành
    khác, sư liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát
    triểnước đây,khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất, giá cả xoay quanh
    giá trị. Giờ đây, giá cả hàng hóa xoay quanh giá cả sản xuất. Giá trị là cơ sở, là
    nội dung bên trong của giá cả sản cuât; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị
    trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

thiết quyết định và đưa ra 2 định nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị
trường. Về bản chất, giá cả thị trường là biểu hiện tiền tệ của giá trị.

Lý thuyết giá trị – lao động của A còn có hạn chế. Ông nêu lên 2
định nghĩa: Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết
định. Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là
người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng,
giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết
định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong
nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế TBCN, giá trị do các
nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô..
Ông cho rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi
thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý
thuyết giá trị – lao động “Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá
quyết định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”.
3. David Ricardo
Ông phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi,
nhưng không phải là thước đo của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị
tương đối, còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và
có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. .Ricardo chỉ ra là định
nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng, còn định nghĩa “Giá trị
lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định” là
không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn
mà ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.

Ricardo cũng khẳng định “Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và
cấu tạo giá trị hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa
phân tích được sự dịch chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào.

Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là
phạm trù vĩnh viễn. Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá cả sản
xuất, chưa thấy được mâu thuẩn giữa giá trị và giá trị sử dụng vì chưa có được
lý thuyết tính hai mặt của lao động.

4. J.Batis
J.B đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy
nhất của lao động trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá
trị chỉ được xác định trên thị trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi.
Thước đo giá trị của một vật phẩm chính là số lượng vật phẩm khác mà người
khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm đó. Nói khác đi theo ông, giá trị được quyết
định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở đây, Say đã đồng nhất giá trị với giá
cả thị trường.

5. Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá.
Ông đã tiến thêm 1 bước so với D là đưa ra thước đo giá trị hàng hoá:
“thời gian lao động xã hội cần thiết”. Do đó, ông đã qui lao động thành mối
liên hệ giữa nhu cầu xã hội và thời gian lao động xã hội cần thiết để thoả mãn
nhu cầu.

Tuy nhiên, so với D thì Sismondi còn có chỗ thụt lùi: D coi
giá trị tương đối của hàng hoá được đo bằng lượng lao động chi phí để sản
xuất ra hàng hoá, còn Sismondi, giá trị tương đối của hàng hoá được qui định
bởi cạnh tranh, bởi lượng cầu về hàng hoá.

6. Pi-e Giô-Dép PruĐông
Giá trị bao gồm 2 mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi, chúng phản ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và khan hiếm.

triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

I. Kinh tế thị trường:

  • Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
    động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
    hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Có thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ
    thể, phản ánh sự giao thoa, chuyển tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về
    ba mô hình chủ yếu sau:
    ● Mô hình kinh tế thị trường tự do
    ● Mô hình kinh tế thị trường – xã hội
    ● Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam)
    Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện đang được thực thi chỉ
    ở hai nước (Việt Nam – kinh tế thị trường định hướng XHCN và Trung Quốc –
    kinh tế thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế
    kỷ thử nghiệm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức
    sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.
    Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:
  • Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
    trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của
    nền kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các
    ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng…) được nhà nước
    quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được
    vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật
    kinh tế xã hội chủ nghĩa.
  • Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh
    tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và

tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động
vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008,
Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
a) Giai đoạn trước Đại VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô,
mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công
hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.
b) Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội
dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng XHCN. Đại hội VI thừa nhận sự tồn tại khách quan
của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên
CNXH (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).

c) Giai đoạn từ ĐH IX (2001) đến nay
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý
kinh tế sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội

trong giai đoạn tiến lên CNXH, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
2. Biểu hiện của quy luật giá trị
Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CHXN
ở Việt Namục tiêu phát triển là nhằm “ xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu ”.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế vận
động theo những kinh tế vốn có của kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp, hộ
gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thỏa đáng 3 câu hỏi: sản
xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản vuất như thế nào. Trên thị trường hàng hóa và
dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà nước,
mở rộng quyền tự chủ doanh nghiệp, xóa bỏ dần vieccj nhà nước bao cấp và
sản xuất tiêu chực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ
lâu dài.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mỗi thành phần kinh tế
theo đuổi mục đích riêng và bằng những cách khác nhau, chịu sự tác động của
quy luật kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải
nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những “đài chỉ
huy”, là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc
bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị
trường khác.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu
ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không

CHƯƠNG III. KẾT LUẬN

Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa, tác động đến
sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đây cũng là một quy luật kinh tế có vai trò
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy rất rõ ràng rằng quy luật
giá trị và những biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hóa, ..à lĩnh
vực tác động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội.
Đảng và nhà nước nước ta đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
việc dổi mới xã hội và vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế đất nước. Việc
tuân theo nội dung của quy luật giá trị để hình thành và xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Tuy nhiên, sự vân dụng đó vẫn còn những hạn chế nhất định và rất
cần phải thực hiện các biện pháp kịp thời để khắc phục.

Tài liệu tham khảo:

[1] Giáo trình. (2010). Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[2] Lê Thành Nghiệp. (n.). Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ
thuật, Hà Nội.
[3] Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng. (2009). Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và
đột phá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] BCHTW. (2008). Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản – Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
[5] Nguyễn Văn Linh. (1986). “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương (khóa
VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII”. Văn kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.