Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước là gì? Đối tượng quản lý

Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước là gì? Đối tượng quản lý?

    Trong kinh doanh, quản lý tài chính là hoạt động xử lý tài chính của một công ty theo cách cho phép nó thành công và tuân thủ các quy định.  Ở Việt Nam, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận, cơ cấu của bộ máy nhà nước, chịu sự điều chỉnh của pháp luật hành chính và các quan hệ hành chính công. Địa vị pháp lý của họ được thể chế hóa trong luật hành chính.Điều đó đòi hỏi cả một kế hoạch cấp cao và thực hiện ngay lập tức.

    1. Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước là gì?

    – Các cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước( State administrative agencies.) thực hiện các hoạt động hành pháp (hoặc hành chính nhà nước) trên cơ sở pháp luật và thực thi pháp luật. Các cơ quan nhà nước khác như Quốc hội, toà án … cũng thực hiện hoạt động quản lý nhà nước tuy không phải là hoạt động chính mà chỉ nhằm hoàn thành cơ bản các chức năng của mình (như chức năng lập pháp, chức năng xét xử. ). Cơ quan hành chính nhà nước được thành lập trong hệ thống từ trung ương đến cơ sở, trực thuộc hoặc gián tiếp với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp – Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương.

    Có ba cách phân loại cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam dựa trên ba tiêu chí khác nhau.

    *  Căn cứ vào lãnh thổ, cơ quan hành chính nhà nước được phân thành:

    – Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ, Thanh tra Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chỉ đạo hành chính nhà nước ở địa phương. cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực quốc gia.

    – Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bao gồm Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn thực hiện quản lý nhà nước về mọi mặt trong phạm vi đơn vị hành chính địa phương và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành tại địa phương.

    * Căn cứ vào thẩm quyền của mình, cơ quan hành chính nhà nước được phân thành:

    – Cơ quan hành chính nhà nước có quyền tài phán chung gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống xã hội.

    – Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền xét xử riêng gồm các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước chuyên ngành trên phạm vi cả nước.

    ( Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động, cơ quan hành chính nhà nước được phân thành:

    – Cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo, gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Họ có thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến các lĩnh vực khác nhau.

    – Cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Vì hoạt động quản lý của các cơ quan này đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, nên chế độ trách nhiệm của họ dựa trên trách nhiệm cá nhân. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền ra quyết định được coi là quyết định của cơ quan mình.Địa vị pháp lý của cơ quan hành chính nhà nước

    Địa vị pháp lý là vai trò, vị trí, quyền và nghĩa vụ pháp lý của cơ quan hành chính nhà nước, là cơ sở pháp lý để cơ quan hành chính nhà nước thực hiện tốt công việc quản lý nhà nước. Mỗi cơ quan hành chính nhà nước có địa vị pháp lý riêng được pháp luật quy định cụ thể, rõ ràng trong quá trình thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước của mình.

    Xem thêm: Khái niệm và các phương pháp quản lý hành chính nhà nước

    2. Đối tượng quản lý:

    – Ở Việt Nam, địa vị pháp lý của các cơ quan hành chính nhà nước được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đã được sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tiễn từng thời kỳ và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.

    – Chính phủ, là cơ quan hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.  Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ đã được đổi mới qua các thời kỳ. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ có quyền ban hành các nghị định, nghị quyết có hiệu lực quốc gia nhằm quy định chi tiết và thi hành các luật do Quốc hội thông qua. Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ có nhiệm vụ quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước, thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia, chỉ đạo hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp.

    Thẩm quyền của Chính phủ bao gồm thẩm quyền của tập thể Chính phủ và thẩm quyền của người đứng đầu Chính phủ, cụ thể là Thủ tướng Chính phủ. Khi thực hiện thẩm quyền của mình, Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số về những vấn đề quan trọng được quy định của pháp luật. Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ được thực hiện thông qua các quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Để bảo đảm sự quản lý của mình, Thủ tướng Chính phủ có quyền:

    – Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Chính phủ.

    – Đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và người giữ chức vụ tương đương.

    – Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ thông tư của Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với quy định của pháp luật; đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và kiến ​​nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.

    – Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm, điều động, miễn nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phê chuẩn miễn nhiệm thành viên Ủy ban nhân dân cấp này.

    – Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của mình trong phạm vi cả nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước.

    Hiện Việt Nam có 22 bộ và cơ quan ngang bộ. Là cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương có quyền tài phán chuyên trách (mỗi cơ quan quản lý một số ngành, lĩnh vực) hoạt động theo chế độ một thủ trưởng. Do đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ. Địa vị pháp lý của bộ, cơ quan ngang bộ thể hiện phần lớn ở thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, những người có quyền:

    – Ban hành các Thông tư hướng dẫn thi hành các văn bản của Chính phủ cho các ngành, các địa phương liên quan đến ngành, lĩnh vực mình phụ trách.

    – Hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chỉ đạo, phối hợp với Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.- Đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật đối với văn bản do Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân ban hành về ngành, lĩnh vực của mình; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

    – Phối hợp với các Bộ, ngành ban hành thông tư liên tịch.

    – Ủy ban nhân dân các cấp: Đây là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước (Hội đồng nhân dân) cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, có quyền ban hành quyết định hành chính và thực hiện hành vi hành chính để thực hiện quyền hành pháp ở địa phương và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở tất cả các miền trong địa giới hành chính tương ứng của chúng. Ủy ban nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

    Ở Việt Nam tồn tại ba cấp hành chính. Mỗi Ủy ban nhân dân tương ứng với từng đơn vị hành chính – lãnh thổ.

    – Cải cách bộ máy hành chính được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách hành chính quốc gia, với nội dung được xác định rõ cách đây 10 năm trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước như sau:

    – Điều chỉnh chức năng của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.

    – Quy định cụ thể, rõ ràng chức năng, trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan này.

    – Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.

    – Tinh gọn các cơ quan hành chính nhà nước, từng bước hiện đại hóa nền hành chính.

    Cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể sau 10 năm thực hiện, trong đó có sự phân định rạch ròi giữa hành chính nhà nước và quản lý kinh doanh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước khác, bước đầu tinh giản bộ máy hành chính nhà nước thông qua việc sáp nhập một số cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ở trung ương, sáp nhập một số bộ phận tổ chức trong cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

    Tuy nhiên, bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn còn bộc lộ những bất cập như cơ cấu tổ chức cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, thiếu nhịp nhàng, làm tăng biên chế và chi tiêu hành chính.

    Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách bộ máy hành chính nhà nước nói riêng và cải cách hành chính nói chung trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.