Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Là Gì? Khái niệm Rủi ro tín dụng

5/5 – (3 bình chọn)

Tải miễn phí mẫu Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Là Gì? Khái niệm Rủi ro tín dụng cho các bạn đang làm luận văn thạc sĩ ngành Tài chính Ngân Hàng, còn rất nhiều nội dung tham khảo về uản Lý Rủi Ro Tín Dụng tại ngân hàng, các bạn có thể tham khảo tại các bài viết tiếp theo của Luận văn Panda.

Lưu ý: Trong quá trình làm đề tài luận văn thạc sĩ Tài Chính Ngân Hàng, nếu các bạn không có thời gian làm bài, hay những khó khăn khác có thể liên hệ với Dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ của bên mình để được hỗ trợ làm bài qua:

SĐT/ZALO: 0932.091.562

1.1 Khái niệm: Rủi ro tín dụng

  • Theo Ủy ban Basel thì rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết. Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nợ và lãi.
  • Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
  • Như vậy, rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó TCTD là chủ nợ và khách hàng là con nợ không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như: bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay trên thị trường liên ngân hàng, swap, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ. . .

1.2 Các loại rủi ro tín dụng: (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch (Concentration risk):

  • Rủi ro danh mục (Portfolio risk) là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk).
  • Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
  • Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, một số ngành kinh tế, hoặc trong cùng một khu vực địa lý hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
  • Rủi ro giao dịch (Transaction rish): Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
  • Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án cho vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
  • Rủi ro đảm bảo: Phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo.
  • Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng và kỷ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.

Xem Thêm chi tiết về quy trình làm luận văn và bảng giá viết thuê luận văn thạc sĩ tại đây:

===> Bảng Giá viết luận văn thạc sĩ

1.3 Thiệt hại do rủi ro tín dụng

1.3.1 Đối với ngân hàng (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

  • Rủi ro tín dụng sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng do ngân hàng bị mất cơ hội nhận được thu nhập tiền lãi, tổn thất trước hết tác động đến lợi nhuận và sau đó là vốn tự có của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng vì vậy trong trường hợp nợ xấu quá nhiều ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một lúc nào đó ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến phá sản. Như vậy, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng.

1.3.2 Đối với nền kinh tế – xã hội

  • Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra khi không chỉ những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của những người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Tổn thất của các ngân hàng làm gia tăng lo ngại về tài chính công như khả năng xảy ra sự đổ xô rút tiền ngân hàng “bank runs”.
  • Bên cạnh đó, ngày nay hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hóa cao nên một khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế – xã hội. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng, dù chỉ ở một ngân hàng mà không được ứng cứu kịp thời thì có thể gây phản ứng dây chuyền đe dọa đến tính an toàn và ổn định của cả hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ gây ra những bất ổn về kinh tế – xã hội.

Rõ ràng, rủi ro tín dụng có thể gây ra những thiệt hại to lớn, không lường trước được đối với nền kinh tế – xã hội của một quốc gia. (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

1.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

1.4.1 Nguyên nhân về phía ngân hàng

  • Do một số ngân hàng tăng trưởng tín dụng mà thiếu sự kiểm soát chất lượng tín dụng: bỏ bớt các điều kiện tín dụng, thực hiện cho vay không đúng quy định, thiếu kiểm soát quản lý tín dụng trước, trong và sau khi giải ngân.
  • Ngân hàng chưa có đủ thông tin để phân tích và đánh giá khách hàng dẫn đến xác định sai nhu cầu vay vốn, thời hạn trả nợ chưa phù hợp với vòng quay của vốn hoặc dòng đời dự án dẫn đến khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.
  • Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng nên chưa dự đoán được rủi ro đối với một khoản vay.
  • Do ngân hàng chưa giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều, hoặc dự trữ vốn quá nhiều gây ứ động vốn, lãng phí trong sử dụng vốn, hoặc dùng vốn ngắn hạn cho vay trung hạn quá mức quy định.
  • Ngân hàng đánh giá chưa đúng về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, bảo hiểm.
  • Do cán bộ tín dụng, cán bộ lãnh đạo yếu hoặc thiếu chuyên môn, chủ quan về khách hàng cũ, khách hàng quen biết hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp.

1.4.2 Nguyên nhân về phía khách hàng (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

  • Do khách hàng chưa đủ năng lực pháp lý.
  • Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ.
  • Năng lực quản lý kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý của mình.
  • Do kinh doanh thua lỗ liên tục, không có khả năng trả nợ.
  • Quản lý vốn vay không hợp lý, vay vốn quá nhiều dẫn đến thiếu khả năng thanh toán.
  • Khách hàng cố tình lừa đảo, chiếm đoạt vốn ngân hàng.

1.4.3 Nguyên nhân khác

* Do môi trường kinh tế không ổn định:

  • Những thay đổi trong các chính sách của chính phủ như: Thay đổi về mức thuế, ngân sách hàng năm, chính sách tiền tệ và những thay đổi trong lĩnh vực ngân hàng.
  • Tình hình kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, nạn thất nghiệp gia tăng, thu nhập không ổn định, Ngân hàng cho vay không thu hồi được nợ hoặc thu hồi không đủ.
  • Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
  • Áp lực cạnh tranh từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)
  • Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
  • Sự tấn công của hàng nhập lậu: Cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan khắp nơi, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm . . . là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình nhập lậu ở nước ta.
  • Do sự kém hiệu quả của các cơ quan quản lý Nhà nước.
  • Do những yếu kém của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giám sát cũng như tạo ra sự minh bạch trong thị trường tài chính, nhất là sự cung cấp kịp thời các thông tin kinh tế xã hội.
  • Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
  • Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư một số ngành: Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.

* Rủi ro do sự thay đổi của môi trường tự nhiên: (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

  • Những tổn thất xảy ra bất ngờ khi có thiên tai, địch họa, dịch bệnh, bảo lụt, hỏa hoạn . . . và những nguyên nhân bất khả kháng khác.

* Tình hình chính trị không ổn định:

  • Tình hình chính trị không ổn định dẫn tới sự bất ổn trong xã hội, các chính sách, các quy định pháp luật của Nhà nước có liên quan đến nghiệp vụ tín dụng sẽ bị ảnh hưởng theo.

Xem nhiều lời mở đầu tại đây:

===> Lời mở đầu trong luận văn thạc sĩ

2 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

2.1 Khái niệm

Quản lý rủi ro tín dụng: là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để cảnh báo, phòng ngừa và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa các rủi ro tín dụng phát sinh.

2.2 Nhiệm vụ của công tác quản lý rủi ro tín dụng

  • Hoạch định phương hướng, kế hoạch phòng chống rủi ro. Dự đoán rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào, nguyên nhân và hậu quả ra sao, đồng thời, tổ chức phòng chống rủi ro một cách khoa học nhằm chỉ ra những mục tiêu cụ thể cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể đạt được.
  • Xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát phòng chống rủi ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những công cụ kỹ thuật phòng chống rủi ro, xử lý rủi ro và giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra một cách nghiêm túc.
  • Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch phòng chống rủi ro đã hoạch định, phát hiện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi thực hiện giao dịch, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro.

2.3 Đánh giá rủi ro tín dụng (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Khi đánh giá rủi ro tín dụng trong công tác quản lý rủi ro người ta sử dụng một số mô hình quản lý rủi ro tín dụng và các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng

2.3.1 Một số mô hình quản lý rủi ro tín dụng

Trong công tác quản lý rủi ro, cần thiết phải có một hệ thống đo lường rủi ro tín dụng nhằm phân loại các mức độ ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, từ đó có biện pháp cụ thể để quản trị tốt những rủi ro ở các mức độ khác nhau. Có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm cả định lượng và định tính. Một số mô hình thường sử dụng như Mô hình chất lượng 6C, Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor, Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model) (Chi tiết xem Phụ lục 1)

2.3.2 Chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng

Để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, người ta thường dùng chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu và kết quả phân loại nợ.

* Tỷ lệ nợ quá hạn:

  • Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn (Nợ nhóm 2, 3, 4 và 5)
  • Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5% nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.

* Tỷ trọng nợ xấu/ Tổng dư nợ cho vay (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

  • Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi, . ..) là những khoản tín dụng hoàn trả không đúng hạn, không được phép và không đủ tiêu chuẩn để được gia hạn nợ (Nợ nhóm 3, 4 và 5 – Nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 được giải thích ở phần tiếp theo của mục này)
  • Theo quy định hiện nay, tỷ lệ nợ xấu phải dưới 3% .
  • Tỷ trọng tín dụng trong tổng tài sản có

Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành ba nhóm:

  • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
  • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
  • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

* Phân loại nợ (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Các khoản nợ trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại thành 5 nhóm theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 theo phương pháp định lượng và phương pháp định tính:

  • Phương pháp “Định lượng”: Điều 6 – Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN- phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
  • Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán;
  • Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ;
  • Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày;
  • Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày;
  • Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.

Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.

  • Phương pháp “Định tính”: Lần đầu tiên phương pháp “định tính” được Quyết định 493 cho phép áp dụng đối với tổ chức tín dụng đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận. (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

* Trích lập dự phòng

  • Cho dù nợ được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4 và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%.
  • Việc thi hành các quy định mới sẽ yêu cầu phải có những thay đổi tại các ngân hàng, chẳng hạn như đủ vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn khác để trích lập dự phòng cũng như các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, nhân sự, hệ thống thông tin và dữ liệu để quản lý nợ quá hạn. Việc thi hành các quy định mới cũng đặt ra những yêu cầu đối với NHNN trong việc phát triển cơ cấu tổ chức và nhân sự để đáp ứng các yêu cầu thực tế. Cụ thể, việc kiểm soát dựa trên đánh giá chất lượng tài sản sẽ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thanh tra NHNN. NHNN sẽ phải xây dựng một cơ chế kiểm tra và giám sát trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá đó.
  • Hiện nay, tại Việt Nam, hầu hết các NHTM vẫn đang thực hiện phân loại nợ theo Điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN căn cứ vào thời gian quá hạn của các khoản vay đang có dư nợ. Nhiều khả năng nợ xấu của các NHTM có thể cao hơn con số chính thức mà các ngân hàng đưa ra nếu thực hiện phân loại khách hàng và nợ theo Điều 7 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN căn cứ vào kết XHTD nội bộ của NHTM.

2.4 Các phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel 1, Basel 2 (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Basel đã nghiên cứu các yêu cầu về an toàn vốn trong đó quy định rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường được ban hành lần đầu vào năm 1988 trong Hiệp ước Basel I. Năm 2004, hiệp ước Basel II đã được thông qua, bổ sung thêm rủi ro hoạt động, quy định tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu gắn chặt với mức độ rủi ro của tài sản ngân hàng liên quan đến nhiều yếu tố bao gồm xếp hạng tín nhiệm của khách hàng, mức tập trung của khoản vay vào một nhóm khách hàng.

2.4.1 Quản lý rủi ro tín dụng theo Basel 1

Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động theo thông lệ quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.

* Mục đích của Basel nhằm

  • Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
  • Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
  • Thành tựu của Basel I (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Là đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn.

Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) = A/(B+C) > 8%

Tiêu chuẩn này quy định 05 định mức về vốn như sau:

+ Mức vốn tốt                              : CAR > 10%

+ Mức vốn thích hợp              : CAR > 8%

+ Thiếu vốn                                   : CAR < 8%

+ Thiếu vốn rõ rệt                     : CAR < 6%

+ Thiếu vốn trầm trọng         : CAR < 2%

  • Trong đó, A là vốn tự có của ngân hàng, bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Vốn cấp 1 (vốn cơ bản): Vốn cấp 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.

Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các khoản lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho thuê).

Tuy nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có đảm bảo không bao gồm định nghĩa về vốn này. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.

  • là Giá trị tài sản có rủi ro nội bảng (Giá trị số sách tài sản cố nội bảng x Hệ số rủi ro quy đổi tài sản có theo quy định).
  • là Giá trị tài sản có rủi ro ngoại bảng (bằng C1 + C2), với:

C1: Tài sản có rủi ro của các cam kết bảo lãnh, tài trợ.

C2: Tài sản có rủi ro của các hợp đồng giao dịch lãi suất, giao dịch ngoại tệ.

Cả C1 và C2 đều được tính theo công thức: (C1, C2) = (Giá trị tài sản có sổ sách) x (Hệ số chuyển đổi) x (Hệ số rủi ro).

Theo biến động của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bảng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thỏa mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.

Tuy nhiên QTRR theo Basel I vẫn còn một số hạn chế, đó là: (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

  • Không phân biệt theo loại rủi ro:
  • Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng B.
  • Một khoản nợ cho một ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ cần một lượng vốn bằng 1/5 khoản nợ cho General Electric (GE – một công ty xếp hạng AAA) –> Việc giữ các tài sản có độ rủi ro thấp ít sinh lợi hơn tài sản có độ rủi ro cao.
  • Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa:
  • Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị.
  • Không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản vay $1.
  • Không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành (rủi ro tác nghiệp)
  • Chưa đánh giá một cách đầy đủ mức độ tín nhiệm của khách hàng vay nợ, cũng như khả năng không trả được nợ cho Ngân hàng hoặc do khách hàng vỡ nợ.

XEM THÊM NHIỀU CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG LUẬN VĂN THẠC SĨ TẠI ĐÂY:

===>>> CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG LUẬN VĂN THẠC SĨ

2.4.2 Quản lý rủi ro tín dụng theo Basel 2 (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Basel II bao gồm những khuyến nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision – BCBS)

Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột”:

  • Yêu cầu về vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I;
  • Giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính;
  • Sử dụng hiệu quả việc công bố thông tin nhằm lành mạnh kỷ luật thị trường để nâng cao tính ổn định trong hệ thống tài chính.

Xem phụ lục 1 (đính kèm)

  • Các đặc điểm của Basel II:
  • Vốn tối thiểu vẫn là 8% của tài sản có điều chỉnh rủi ro.
  • Trọng số rủi ro sẽ phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng của từng khách hàng.
  • Chứng khoán sẽ được xem xét khi tính toán mức vốn yêu cầu.
  • Càng nhiều phương pháp phức tạp thì càng ít vốn an toàn. (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)
  • Vốn phải bù đắp cho tất cả các loại rủi ro tốt hơn (tham khảo so sánh giữa hiệp ước Basel I và hiệp ước Basel II trong Phụ lục II)

* Quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II: có 2 phương pháp.

  • Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá: Đo lường rủi ro tín dụng theo phương pháp tiếp cận chuẩn hóa được hỗ trợ bởi các đánh giá bên ngoài về tín dụng, phụ thuộc vào đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập.
  • Phương pháp phân hạng nội bộ: Đo lường rủi ro tín dụng theo phương pháp sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ của mình.

* Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá

  • Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá là các ngân hàng phải phân loại các rủi ro tín dụng dựa trên những đặc điểm có thể quan sát được rủi ro tín dụng.
  • Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá có những hướng dẫn sử dụng cho cán bộ kiểm tra, giám sát để quyết định nguồn đánh giá xếp loại của bên ngoài có phù hợp để có thể áp dụng cho các ngân hàng hay không? Một đổi mới quan trọng của phương pháp chuẩn hoá là những khoản vay phải coi là quá hạn nếu xếp loại rủi ro của chúng là 150%, trừ trường hợp ngân hàng đã trích dự phòng rủi ro cho những khoản vay đó.
  • Khi các ngân hàng mở rộng hàng loạt các sản phẩm phái sinh tín dụng như thế chấp, bảo lãnh, Basel II coi những công cụ này là những nhân tố làm giảm bớt rủi ro tín dụng.
  • Phương pháp chuẩn hoá cũng bao gồm việc xử lý cụ thể đối với những rủi ro bán lẻ. Xếp loại rủi ro của các loại rủi ro trong cho vay có thế chấp nhà ở sẽ được giảm cùng với những loại rủi ro khác của các khoản tín dụng cho các công ty không được xếp loại tín nhiệm.
  • Để giúp các ngân hàng và các giám sát viên trong trường hợp không có nhiều lựa chọn, Uỷ ban Basel đã phát triển “phương pháp chuẩn hoá đơn giản” bao gồm những lựa chọn đơn giản nhất để tính toán các tài sản được xếp loại rủi ro. Các ngân hàng áp dụng các phương pháp chuẩn hoá đơn giản cần tuân thủ những yêu cầu kiểm tra, giám sát và kỷ luật thị trường tương ứng với hiệp ước mới của Basel.
  • Phương pháp tiếp cận căn cứ vào xếp hạng nội bộ IRB (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Các ngân hàng phải có các đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng độc lập chịu trách nhiệm thiết kế, thực hiện hoạt động các hệ thống xếp loại nộ bộ của mình. Các đơn vị này phải độc lập về chức năng đối với các bộ phận quản lý phải chịu trách nhiệm về việc tạo nên những khoản rủi ro tiềm năng. Các nội dung kiểm soát bao gồm:

  • Kiểm tra và theo dõi xếp loại nội bộ;
  • Lập và phân tích các báo cáo tóm lược từ hệ thống xếp loại nội bộ của ngân hàng, bao gồm dữ liệu lịch sử về các trường hợp không trả nợ xảy ra và một năm trước khi xảy ra, phân tích các biện pháp giảm nhẹ rủi ro, theo dõi xu hướng trong các tiêu chí xếp loại chủ yếu;
  • Thực hiện các quy trình để thẩm tra xem những định nghĩa xếp loại có được sử dụng thống nhất ở các phòng, ban và khu vực địa lý hay không;
  • Đánh giá và lập hồ sơ mọi thay đổi trong quy trình xếp loại, lý do thay đổi.
  • Xem xét các tiêu chí xếp loại để đánh giá xem các tiêu chí này còn tác dụng dự báo rủi ro hay không. Những thay đổi của quá trình xếp loại, các tiêu chí hoặc các thông số xếp loại phải được lập thành văn bản và lưu trữ để giám sát viên xem xét.
  • Đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng phải tích cực tham gia trong việc phát triển, chọn lọc, thực hiện và xác định giá trị hiệu lực của các mô hình xếp loại, chịu trách nhiệm kiểm soát và giám sát mọi mô hình được sử dụng trong quá trình xếp loại và chịu trách nhiệm cao nhất về thường xuyên đánh giá và thay đổi các mô hình xếp loại. (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Nguyên lý cơ bản theo các tiếp cận của Basel II hướng đến sự nối kết chặt chẽ xếp hạng tín nhiệm với rủi ro tín dụng. Xếp hạng khách hàng vay chủ yếu là dự báo nguy cơ vỡ nợ theo 3 cấp độ cơ bản là: Nguy hiểm, cảnh báo và an toàn, tức là dựa vào xác xuất không trả được nợ của khách hàng (Probability of defalt – PD). Để tính PD, NHTM dựa vào các khoản nợ mà khách hàng đã giao dịch với NHTM trong quá khứ là 5 năm, với 3 nhóm dữ liệu quan trọng là: Các chỉ tiêu tài chính mang tính định lượng và chỉ tiêu phi tài chính mang tính định tính, và nhóm dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng. Vì vậy mỗi NHTM cần phải xây dựng về xếp hạng tín dụng nội bộ, theo dõi và thực hiện QTRR theo tiêu chuẩn quốc tế.

Tương ứng với mức rủi ro trên thì NHTM quy định mức trích lập dự phòng sẽ được hạch toán vào chi phí. Nếu tỷ lệ nợ xấu cao, dự phòng tăng, lợi nhuận Ngân hàng giảm sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh NHTM. Để đảm bảo hệ số an toàn vốn cao, mức độ rủi ro thấp, thì NHTM cần thiết phải quản lý danh mục tín dụng, danh mục đầu tư hợp lý.

Xem thêm nhiều bài luận văn mẫu khác tại đây:

===> Luận văn thạc sĩ Tài Chính Ngân Hàng

2.4.3 Nguyên tắc Basel về quản lý rủi ro tín dụng (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây: –

  • Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung này,

Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là các sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của Hội đồng quản trị.

  • Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời, cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt, cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ. (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)
  • Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên tắc): Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô và mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời, hệ thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng … để phát hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối với các khoản tín dụng này có thể được giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận này, tùy theo quy mô và bản chất của mỗi khoản tín dụng. Ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng.

Như vậy, trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản:

  • Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia.
  • Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
  • Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng.

Ngoài ra, Ủy Ban Basel còn đưa ra 25 nguyên tắc cơ bản cần thiết đảm bảo cho hệ thống giám sát hoạt động có hiệu quả (chi tiết xem Phụ lục 3); Bộ sách hướng dẫn (được cập nhật định kỳ) với các khuyến nghị hiện nay của ủy ban Basel, các hướng dẫn và tiêu chuẩn (chi tiết xem Phụ lục 4). (Quản Lý Rủi ro tín dụng Là Gì)

Mặc dù sau năm 2010 Việt Nam mới áp dụng Basel 2, nhưng Basel 2 đã ảnh hưởng lớn đến các ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là yêu cầu về quản lý rủi ro. Việc áp dụng Basel 2 đòi hỏi chi phí khá cao, các tổ chức tín dụng phải sử dụng hệ thống xếp hạng nội bộ, bao gồm: quy trình, thủ tục và công nghệ thông tin để đánh giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Về giám sát vĩ mô, Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định 457 và Quyết định 493 quy định về các tỉ lệ an toàn, về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó Quyết định 493 đã tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính và dự phòng được chia thành dự phòng chung và dự phòng cụ thể hướng tới khuôn khổ dự phòng theo Basel 2.

DOWNLOAD FILE