Phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo – 123docz.net

Một phần của tài liệu TÌM HIỂU THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ THÔNG QUA VIỆC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG MẦM NON KHU VỰC SÓC SƠN – HÀ NỘI

Phương pháp giáo dục đạo đức là cách thức tác động, cách thức tổ chức
hoạt động cho trẻ của nhà giáo dục nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất
đạo đức theo mục đích giáo dục.

Trong lí luận và thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay, người ta phân
loại các phương pháp giáo dục đạo đức thành hai nhóm chủ yếu: nhóm
phương pháp hình thành khái niệm, niềm tin đạo đức, nhóm phương pháp rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo, thói quen đạo đức và tích luỹ kinh nghiệm đạo đức thực
tế. Ngoài hai nhóm này, người ta còn dùng nhóm phương pháp kích thích điều
chỉnh hành vi và nhóm phương pháp kể chuyện, đó là nhóm phương pháp
đánh giá nhằm tăng cường hai nhóm trên.

a. Nhóm phương pháp hình thành khái niệm và niềm tin. Gồm phương

pháp giải thích, thuyết phục và nêu gương.

+ Nêu gương:

Nêu gương là dùng những tấm gương tốt, điển hình về những hành vi,
phẩm chất đạo đức để giáo dục trẻ noi theo. Trong công tác giáo dục đạo đức
người ta thường sử dụng rộng rãi phương pháp này. Trước hết nó phù hợp với tính
cụ thể và tính trực quan của tư duy trẻ, đồng thời phù hợp với đặc điểm hay bắt
chước của trẻ, trẻ thường có hướng lặp lại hành vi cử chỉ của người khác.

Dùng những tấm gương tốt về hành vi đạo đức của mọi ngưòi xung
quanh, giúp trẻ thấy được cách làm cụ thể, cách cư xử như thế nào cho đúng

trong những trường hợp khác của cuộc sống. Nó tác động một cách trực quan
đến trẻ, khiến trẻ dễ bắt chước làm theo.

Giáo viên có thể sử dụng những tấm gương của những người lớn xung
quanh trẻ, của bạn bè trẻ, và cả những tấm gương của các nhân vật trong các
tác phẩm văn học.

+ Giảng giải :

Giảng giải là phương pháp giáo viên dùng lời nói giúp trẻ hiểu được ý
nghĩa hoặc lí do của một hành vi đạo đức, quy tắc đạo đức, phân biệt được
điều tốt, điều xấu nhằm hướng trẻ vào thực hiện một cách tự giác và tích cực
những yêu cầu đạo đức.

Phương pháp giảng giải giúp trẻ tiếp thu những khái niệm đạo đức và
thực hiện một cách tự giác. Giảng giải còn có tác dụng quan trọng giúp trẻ
biết đánh giá về đạo đức, phân biệt được điều tốt, điều xấu từ đó hình thành
được niềm tin đạo đức cho trẻ.

Khi dùng phương pháp này, lời giải thích của cô phải ngắn gọn, cụ thể
và dễ hiểu, phải dựa vào vốn tri thức, vốn kinh nghiệm đã có ở trẻ. Khi giải
thích giáo viên phải truyền đạt ý kiến về yêu cầu đối với hành vi của trẻ, phải
giải thích tại sao cần có những yêu cầu đó, phải chỉ cho các em phương pháp
thực hiện và khuyến khích trẻ tự nguyện thực hiện theo các yêu cầu đó.

b. Nhóm phương pháp rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thói quen hành vi đạo
đức và tích luỹ kinh nghiệm đạo đức.

Đây là phương pháp tổ chức các hoạt động, các quan hệ đa dạng của
trẻ với người lớn, bạn bè xung quanh nhằm tạo điều kiện cho trẻ tập thực hiện
những quy tắc, chuẩn mực đạo đức và tích luỹ kinh nghiệm đạo đức thực tế.
Nhóm này gồm các phương pháp luyện tập và rèn luyện.

Luyện tập là đặt trẻ vào những tình huống do giáo viên tạo ra để trẻ phải
hành động phù hợp với các tiêu chuẩn và quy tắc hành vi.

Đây là những phương pháp chủ đạo để thực hiện các nhiệm vụ của
công tác giáo dục đạo đức, nhằm biến những khái niệm đạo đức thành những
hành vi, thói quen đạo đức.

Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, khi tổ chức các hoạt động cho
trẻ, cần đề ra những yêu cầu nội dung cụ thể và có sự kiểm tra, đánh giá kịp
thời để hình thành những hành vi đúng đắn cho trẻ. Khi hành vi, cử chỉ tốt đẹp
đã được hình thành cần có sự rèn luyện thường xuyên liên tục để hình thành
thói quen đạo đức trong sinh hoạt hàng ngày. Muốn rèn luyện cho trẻ hành vi,
thói quen đạo đức tốt, giáo viên cần sử dụng các điều kiện khác nhau và tự
mình tạo ra các điều kiện tình huống khác nhau cho trẻ luyện tập.

c. Nhóm phương pháp kích thích điều chỉnh hành vi

Nhóm này gồm có phương pháp khen ngợi và chê trách. Đây là những
phương pháp giáo dục đạo đức được sử dụng để giúp trẻ hiểu rõ hành động
nào tốt – xấu, đúng – sai, hiểu rõ những yêu cầu của các quy tắc đạo đức, cũng
như những nét đẹp trong nhân cách.

+ Khen ngợi:

Đó là phương pháp tác động đến trẻ nhằm xác nhận, đánh giá, biểu
dương những tiến bộ mà trẻ đã đạt được. Khen ngợi có tác dụng gây cho trẻ
một cảm giác vui sương, phấn khởi, tin vào sức mình mà cố gắng vươn lên đạt
những tiến bộ mới.

Khen ngợi không những có tác dụng động viên đối với trẻ được khen
mà còn có tác dụng củng cố nhận thức, động viên trẻ khác noi theo. Trẻ mầm
non rất thích được khen nhưng không phải vì thế mà khen một cách tuỳ tiện.
Khen ngợi phải có chừng mực không nên tập trung vào một đứa trẻ. Khen
ngợi phải xứng đáng nghĩa là khi được khen trẻ phải thực sự cố gắng, có lỗ lực
hoặc có những tiến bộ hơn so với trước đây, được tập thể công nhận xứng
đáng. Tuy nhiên, cũng cần sử dụng lời khen để khích lệ trẻ khuyến khích
những tiến bộ dù là nhỏ của những trẻ nhút nhát tự ti. Khen ngợi phải có tác

dụng hướng dẫn hành động, nghĩa là phải chỉ rõ khen cái gì và tại sao, khen
như vậy mới khích lệ trẻ tiếp thu, lỗ lực theo hướng động viên của giáo viên.
Các hình thức khen rất đa dạng: Một nụ cười, một cử chỉ thân ái, kèm
theo lời khuyến khích, một sự tin cậy. Khiến cho trẻ thấy đó là một phần
thưởng, hoặc phần thưởng bằng hiện vật.

+ Chê trách:

Chê trách là một hình thức đánh giá hành vi giúp trẻ tránh được những
hành động xấu. Dùng phương pháp chê trách nhằm gây cho trẻ phạm sai lầm
một cảm xúc hối hận, từ đó giúp trẻ ngăn ngừa được những hành động xấu.

Sử dụng phương pháp này phải khéo léo bởi vì chê trách không đúng
hoặc thiếu công bằng sẽ gây cho trẻ cảm giác khó chịu. Sử dụng phương pháp
này phải đúng lúc và có những yêu cầu đối với hành động của trẻ sẽ ngăn
ngừa được những hành động xấu, không để những hành động ấy phát triển
thành thói quen xấu.

Các hình thức của chê trách: Nhận xét, nhắc nhở, phê bình. Nhận xét áp
dụng khi hành vi của trẻ còn dễ sửa chữa, không tác hại gì đến bản thân trẻ
cũng như người khác.

Phê bình là hình thức chê trách mạnh hơn, thể hiện sự đánh giá xấu về
hành vi của trẻ, áp dụng trong trường hợp mà một hành động sai phạm nhiều
lần: Nói dối, ăn cắp, không thực hiện quy định….Tuỳ từng đặc điểm của cá
nhân trẻ mà phê bình, có thể phê bình trực tiếp hoặc gián tiếp. Phê bình trực
tiếp có kèm theo lời giải thích trò chuyện với trẻ sẽ đem lại hiệu quả giáo dục
cao hơn.

Cưỡng bức, khi giáo viên đã sử dụng các phương pháp giáo dục khác
mà vẫn không có hiệu quả. Đây là một phương pháp giáo dục đồng thời là một
biện pháp trừng phạt. Cưỡng bức là đặt trẻ vào trong một điều kiện để hành
động của trẻ này không mang tác hại đến cho trẻ khác.

Trừng phạt dưới hình thức cưỡng bức chỉ tạm thời nhưng cần kiên
quyết và nghiêm khắc đối với trẻ, cần luôn coi trọng nhân cách của trẻ, giúp
trẻ nhận ra lỗi lầm để sửa chữa. Giáo viên cần coi trách phạt là biện pháp
ngoại lệ chỉ dùng khi thật cần thiết và dùng càng ít càng tốt.

d. Nhóm phương pháp kể chuyện

Trước hết, cô giáo cần nắm vững lí luận về đọc, kể, chuyển thể và trao
đổi văn học. Đó là các phương pháp chính giúp trẻ mẫu giáo làm quen với văn
học. Đồng thời phải vạch ra được mức độ sư phạm cần tuân theo khi thực hiện
các phương pháp chủ yếu trên, ngoài ra cô giáo cũng phải tự rèn luyện thường
xuyên để có năng lực, kĩ năng vận dụng thành thạo và sáng tạo các phương
pháp trên.

Khi đọc, kể cho trẻ nghe cô giáo cần sử dụng mọi sắc thái biểu cảm của
giọng mình và các phương tiện biểu cảm khác như: nét mặt, ánh mắt, cử chỉ,
điệu bộ,…. Để trình bày tác phẩm làm cho người nghe có thể tái tạo bằng hình
ảnh những cái đã nghe được đồng thời gợi lên ở người nghe những tình cảm và
cảm xúc nhất định.

Phương pháp đàm thoại, trực quan, đưa trẻ vào hoạt động văn học đều là
những phương pháp rất quan trọng giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm một cách
trọn vẹn và trẻ có thể tự rút ra bài học đạo đức của tác phẩm. Vì vậy cô giáo
cần sử dụng linh hoạt các phương pháp nêu trên để hiệu quả giáo dục đạo đức
cho trẻ đạt kết quả cao nhất.

Các phương pháp giáo dục đạo đức nói trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Giáo viên cần biết căn cứ vào nhiệm vụ, điều kiện đặc điểm cá nhân
của trẻ mà sử dụng những phương pháp thích hợp, sao cho trẻ có được những
hành vi, phẩm chất đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội.