Phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế số ở Việt Nam | Tạp chí Quản lý nhà nước

(Quanlynhanuoc.vn) – Ở Việt Nam, nền kinh tế số đang dần hình thành, người lao động cần có sự chuyển đổi về tính chất, trình độ một cách phù hợp mới có thể tồn tại. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực số là yêu cầu tất yếu của thời đại 4.0. Bài viết đưa ra khái niệm cơ bản về kinh tế số, nhân lực số; phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực số Việt Nam, đồng thời, khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.

Nguồn nhân lực số và kinh tế số

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất – kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội”1.

Dưới sự tác động mạnh mẽ trên tất cả mọi lĩnh vực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), muốn phát triển nhanh và bền vững, nước ta: “phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm việc, cách sống, đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số”2. Trọng tâm nhấn mạnh công tác “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”3.

Xây dựng nền kinh tế số (KTS) là một cuộc cách mạng trong phương thức hoạt động của nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế truyền thống dựa vào tài nguyên sang nền kinh tế tri thức với trụ cột là khoa học – công nghệ (KHCN), internet và kỹ thuật số. Phát triển KTS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng và Nhà nước xác định cần phải thực hiện thành công để đất nước “bắt kịp, tiến cùng” với các quốc gia khu vực và thế giới.

Nguồn nhân lực (NNL) là tập hợp những người tạo nên lực lượng lao động của một tổ chức, lĩnh vực kinh doanh, ngành công nghiệp hoặc nền kinh tế. Một khái niệm hẹp hơn là vốn con người, kiến ​​thức và kỹ năng mà các cá nhân có được. Các thuật ngữ tương tự, bao gồm: nhân lực, lao động, nhân sự, cộng sự hoặc đơn giản là con người4.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, KTS là nền kinh tế dựa trên công nghệ số và nền tảng số, với các hoạt động kinh tế về và bằng công nghệ số và nền tảng số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành trên internet. KTS bao gồm 3 cấu phần: KTS ICT/viễn thông (sản xuất phần cứng, phần mềm, dịch vụ công nghệ thông tin, viễn thông, truy cập internet); KTS internet/nền tảng (dữ liệu số, nền tảng số, dịch vụ số, kinh tế chia sẻ, kinh tế thuật toán…); KTS ngành/lĩnh vực (quản trị điện tử, thương mại điện tử, ngân hàng điện tử, nông nghiệp chính xác, du lịch thông minh). Dù được diễn đạt với nhiều hình thức khác nhau song về bản chất KTS là nền kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số, thông tin số, tri thức số; các hoạt động kinh tế thực hiện trên không gian mạng internet, sử dụng các dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, từ đó, tiết kiệm thời gian, nhân lực, tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị lớn cho nền kinh tế. Nền KTS dựa trên nền tảng công nghệ số, trong đó sự phát sự phát triển của internet và sự sáng tạo của con người là động lực chính đề vận hành nền kinh tế.

Nền KTS vận hành dựa trên ứng dụng công nghệ số, tri thức và sự sáng tạo của con người là động lực chính. Do vậy, nguồn nhân lực số (NNLS) phải có đầy đủ năng lực về trí tuệ, tri thức và văn hóa để tổ chức, quản lý và vận hành nền kinh tế, được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau: (1) Có thể lực tốt đáp ứng được điều kiện lao động với cường độ cao; (2) Có nền tảng tri thức, có năng lực làm chủ công nghệ, có tính sáng tạo, linh hoạt trong tiếp thu, ứng dụng những công nghệ mới, thích nghi nhanh với môi trường lao động; (3) Có văn hóa lao động thể hiện qua các yếu tố, như: ý thức kỷ luật lao động, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần cầu thị, tôn trọng đồng nghiệp, trách nhiệm với công việc, có tinh thần xây dựng tập thể.

CMCN 4.0 thúc đẩy sự ra đời của mô hình KTS dựa trên nền tảng tri thức thay cho nền kinh tế truyền thống dựa trên tài nguyên. Sự thay đổi về mô hình kinh tế tất yếu đòi hỏi một lực lượng sản xuất và cụ thể thể là NNL tương ứng. Phát triển NNLS là yếu tố quyết định sự thành công việc xây dựng nền KTS ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng NNLS không phải là việc làm dễ dàng, nhanh chóng. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, việc xây dựng NNLS đáp ứng yêu cầu phát triển nền KTS còn nhiều vấn đề cần làm rõ và có những giải pháp phù hợp.

Thực trạng nguồn nhân lực số ở Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế số

CMCN 4.0 tạo nên những đặc trưng cho sự phát triển của nền KTS dựa trên dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), từ đó tạo ra phương thức, mô hình hoạt động kinh tế mới. Nền kinh tế có sự chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống dựa vào tài nguyên sang nền KTS dựa trên tri thức. Trước đây, tài nguyên, lao động giá rẻ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho một nền kinh tế. Hiện nay, KHCN, máy móc tự động hóa, AI đang dần thay thế lao động sức người, thị trường lao động có thể sẽ bị phá vỡ với hàng triệu lao động giản đơn rơi vào tình trạng thất nghiệp, xu hướng tất yếu của thời đại là NNL phải có sự thay đổi.

Bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…”5. Phát triển NNLS là nhu cầu bức thiết của thực tiễn Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng NNLS tất yếu dựa trên nền tảng NNL Việt Nam hiện có và đây không phải là việc có thể thực hiện một cách nhanh chóng dễ dàng. Cần nghiên cứu thực trạng, phân tích những khó khăn, hạn chế nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn trên con người phát triển NNLS đáp ứng yêu cầu phát triển của Việt Nam.

NNL Việt Nam hiện nay đang tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng. Tính đến ngày 30/9/2022, Việt Nam có quy mô dân số hơn 99,1 triệu người, đứng thứ 15 thế giới, thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước quý III/2022 ước tính là 51,9 triệu người6. Lao động có việc làm cả nước quý III/2022 ước tính 50,8 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 9 tháng năm 2022 là 2,28% giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2021 (3,98%). Nguồn lao động có chất lượng có xu hướng tăng, biểu hiện thông qua tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ trong quý II/2022 là 26,2%7, ước tính 13,4 triệu người cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với quý I/2022 và cùng kỳ năm trước và tăng 0,8% so với năm 2020 (khoảng 24,5%)8. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia (báo cáo 09/9/2022 của Tổ chức Chương trình phát triển Liên hiệp quốc. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để NNL của Việt Nam có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng KTS trong thời kỳ cách mạng 4.0.

Phát triển NNLS là phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của nền KTS dựa trên các tiêu chí cụ thể như: thể lực (sức khỏe); trí lực (tri thức, khả năng làm chủ KHCN, tính sáng tạo, khả năng thích nghi với môi trường lao động); văn hóa (phẩm chất, đạo đức, tâm lý, kỷ luật lao động).

Về thể lực, theo tổng kết 10 năm triển khai Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, chiều cao của thanh niên Việt Nam đã có sự thay đổi ở nhóm thanh niên nam 18 tuổi năm 2020 đạt 168,1cm (tăng 3,7cm so với năm 2010 là 164,4cm), nữ năm 2020 đạt 156,2cm (năm 2010 là 154,8cm)9. Thể chất người Việt Nam chỉ được xếp ở mức trung bình thấp so với thế giới. Với môi trường lao động có cường độ cao, thể lực hạn chế sẽ là yếu tố bất lợi trong quá trình tham gia lao động sản xuất. Nguyên nhân sự hạn chế về thể lực của lao động Việt Nam đến từ nguồn Gen sinh học kèm theo đời sống khó khăn, dinh dưỡng bị hạn chế trong thời gian dài dẫn tới thể chất người Việt có phần thua kém với các quốc gia trên thế giới. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương trình dinh dưỡng học đường, nhằm nâng cao tầm vóc con người Việt và đang cho những kết quả khả quan.

Trí lực là yếu tố mang tính chất quyết định trong phát triển NNLS. CMCN 4.0 với nền tảng công nghệ số hiện đại, IoI, AI đang thay thế lao động giản đơn một cách nhanh chóng. Để thích nghi với nền KTS, người lao động (NLĐ) phải có tri thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật để sử dụng và khai thác các công cụ hiện đại nhằm tăng năng suất lao động. Trí lực của NLĐ biểu hiện qua trình độ tri thức, khả năng làm chủ KHCN, kỹ năng và tay nghề trong quá trình lao động sản xuất. Thực tại khách quan cho thấy, vấn đề trí lực của lao động Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Tính đến hết quý II/2022, với lực lượng lao động ước tính 51,9 triệu người mới chỉ có 26,2% lao động có qua đào tạo, có bằng cấp chứng chỉ10. Như vậy, số lao động chưa qua đào tạo, chưa được công nhận trình độ kỹ năng còn ở mức cao là 73,8%. Thực trạng này cho thấy, NNL Việt Nam đang rơi vào tình trạng thiếu nguồn lao động có chất lượng tạo ra những khó khăn, cản trở sự đóng góp của NNL cho tăng trưởng kinh tế.

Theo Bộ Công Thương, tỷ lệ các dự án FDI sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam còn ở mức thấp, chỉ có 5% công cao nghệ cao từ Mỹ và châu Âu được vận hành, 80% là công nghệ trung bình, 15% là công nghệ lạc hậu. Nguyên nhân một phần dẫn đến từ việc chuyển giao công nghệ còn chậm nhưng mặt khác cũng đến từ NNL chưa đáp ứng yêu cầu của việc làm chủ KHCN trong sản xuất. Báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế trung ương (CIEM), thị trường lao động Việt Nam có sự dư thừa song chất lượng lao động Việt Nam còn thấp, trong đào tạo còn thiếu gắn kết giữa đào tạo và thực hành, kỹ năng lao động còn nhiều hạn chế, chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103 thế giới) kém rất xa so với nhóm ASEAN – 4 chỉ cao hơn In-đô-nê-xi-a và Lào11. Do đó, đào tạo NNLS cho nền KTS trong giai đoạn hiện nay là bức thiết.

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta cần tăng cường hoàn thiện thể chế, văn bản luật tạo điều kiện thuận lợi xây dựng nền KTS. Đẩy nhanh hoạt động chuyển đổi số quốc gia với các yếu tố trọng tâm: chính phủ số, KTS, xã hội số, xây dựng chính phủ điện tử trên nền tảng công nghệ hiện đại, biến người dân thành những công dân điện tử, từng bước thích nghi với xã hội số và KTS.

Đảng và Nhà nước cần chỉ đạo và xây dựng tốt công tác an sinh xã hội, tạo điều kiện thuận để bảo vệ NLĐ. Chỉ đạo các doanh nghiệp (DN) xây dựng môi trường lao động chuyên nghiệp, điều kiện làm việc an toàn hiện đại, điều chỉnh các chính sách về thu nhập, phúc lợi một cách phù hợp để kích thích thái độ, khả năng sáng tạo của NLĐ trong quá trình lao động sản xuất. Công tác quản trị nhân lực phải có chiến lược cụ thể, tránh để xảy ra tình trạng chảy máu chất xám. Công tác đào tạo thường xuyên ở DN cần được thực hiện để NLĐ có điều kiện học tập, nâng cao trình độ, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ. Phân công vị trí việc làm phù hợp với trình độ NLĐ. Từ đó, giúp NLĐ phát huy hết khả năng của bản thân, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.

Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng DN số từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch NNLS. Các DN cần mạnh dạn chuyển đổi số trong hoạt động để phù hợp với định hướng phát triển chung của nền kinh tế. DN chuyển đổi số trong hoạt động sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho NNL, buộc NLĐ phải thay đổi phương thức hoạt động của bản thân, chủ động học tập, nâng cao trình độ, trau dồi kỹ năng, ứng dụng KHCN thay vì trông chờ vào sự đào tạo của chính bản thân DN như trước đây. Thực tiễn là động lực của nhận thức, chính DN sẽ xác lập những “đơn hàng” cho NLĐ bằng yêu cầu của quá trình sản xuất, để NLĐ chủ động chuyển đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển của nền kinh tế.

Thứ ba, xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền KTS. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kết hợp với các bộ, ngành cụ thể, giữa DN với các trường đại học, viện nghiên cứu để dự báo được nhu cầu lao động, nhu cầu về sản phẩm KHCN của từng ngành, lĩnh vực để hoạch định chỉ tiêu đào tạo, đầu tư các công trình nghiên cứu trong điểm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Xây dựng chương trình đào tạo số chú trọng đào tạo tri thức công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong lao động sản xuất cho học sinh từ bậc học phổ thông. Nội dung, phương pháp đào tạo luôn phải cập nhật mới. Xây dựng hệ thống học liệu số, thư viện số giúp phát huy khả năng tự học, tiếp cận thông tin tri thức của người học, người cần nghiên cứu.

Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa DN, nhà trường và người học để tăng cường sự trao đổi và phối hợp tạo sự hiệu quả trong quá trình đào tạo nhân lực số phục vụ DN số trong nền KTS. DN hỗ trợ kinh phí, đặt hàng nhân sự. Nhà trường đào tạo kiến thức chuyên sâu cho người học trong các lĩnh vực DN có nhu cầu tuyển dụng lao động. Người học nhận thức được yêu cầu của DN, căn cứ năng lực bản thân để lựa chọn ngành nghề, rèn luyện năng lực của bản thân một cách phù hợp.

Thứ tư, xây dựng văn hóa lao động cho NNLS. CMCN 4.0 mang tạo cho mỗi người trong xã hội khả năng tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng nhưng không phải thông tin nào cũng chính xác và bổ ích. Nhiều thông tin mang tính độc hại, những tư tưởng chống phá Đảng, Nhà nước, thông tin sai sự thật gây mất định hướng trong hành động của mỗi cá nhân. Do đó, xây dựng, củng cố lập trường tư tưởng chính trị, xác lập lý tưởng sống cho NNL là đặc biệt quan trọng. Tăng cường xây dựng môi trường làm việc văn hóa, tạo điều kiện, cơ hội cho nhân lực phát triển, lãnh đạo phải là người nêu gương, mẫu mực trong lời nói và việc làm. Chiến lược phát triển NNL phải được thực hiện trong môi trường công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật được coi làm chuẩn mực; tạo ra một môi trường văn hóa, dẫn dắt sự phát triển NNL.

Việt Nam có điều kiện to lớn trong việc phát triển NNLS song sự phát triển đó đang chưa tương xứng với tiềm năng. Vì thế, tất cả các lực lượng cùng tham gia phát triển NNLS phải chủ động, tích phát huy được vai trò mình thì mới thực sự mang tới hiệu quả. Đảng và Nhà nước giữ vai trò định hướng, chỉ đạo, xây dựng cơ chế thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số; các tổ chức, DN cần chủ động, linh hoạt trong việc chuyển đổi mô hình, phương thức hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ số; bản thân mỗi cá nhân phải tự giác học tập, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, tạo khả năng làm chủ KHCN ứng dụng vào lao động sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Chú thích:
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 208, 213, 114.
4. Human resources. https://en.wikipedia.org, truy cập ngày 09/01/2023.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 329.
6. Tổng cục Thống kê. Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý III và 9 tháng năm 2022.
7, 9. Tổng cục Thống kê. Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý II và 6 tháng đầu năm 2022.
8. Chỉ số nguồn nhân lực Việt Nam đứng thứ hai khu vực Đông Nam Á, https://baophapluat.vn, ngày 11/01/2021.
10. Việt Nam sớm thu hẹp khoảng cách chiều cao với người Nhật Bản, Hàn Quốc. https://nhandan.vn, ngày 13/02/2021.
11. Lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ mới chỉ đạt 24,5%. https://cand.com.vn, ngày 26/4/2021.
ThS. Nguyễn Đức Thiệu
Trường Đại học Hà Nội